Lịch sử xã Bình Hòa Bắc
LỊCH SỬ, TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG-
THỜI KỲ XÂY DỰNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN
BÌNH HOÀ BẮC
Chương I
ĐẤT VÀ NGƯỜI BÌNH HOÀ BẮC, TRUYỀN
THỐNG YÊU NƯỚC TRƯỚC KHI ĐẢNG RA ĐỜI
I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN:
1. Vị trí địa lý:
Xã Bình Hoà Bắc[1] nằm về hướng Nam của huyện Đức Huệ, diện tích tự nhiên là 3.607 hec-ta(ha), dân số gồm 2.054 hộ với 9.807 người (số liệu thống kê năm 2000). Hiện nay, xã có 4 ấp: Tân Hoà, An Hoà, Hoà Tây và ấp Chánh. Về vị trí, phía Bắc giáp xã Mỹ Thạnh Đông, phía Nam giáp xã Bình Hoà Nam, phía Đông giáp sông Vàm Cỏ Đông, phía Tây giáp xã Bình Thành. Với địa hình có nhiều kinh, rạch, bưng, trấp...đồng thời tiếp giáp Bình Thành - căn cứ cách mạng qua các thời kỳ kháng chiến, vì vậy xã Bình Hoà Bắc là một trong những địa bàn chiến lược trong quá trình đấu tranh cách mạng suốt chiều dài của 02 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Bình Hoà Bắc tiếp giáp với căn cứ Đồng Tháp Mười vì vậy địch tập trung lực lượng khống chế, ngăn chặn đường vận chuyển của ta trên địa bàn xã, đồng thời chúng muốn tiêu diệt căn cứ cách mạng nơi đây đã hình thành từ sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940. Tuy nhiên, với sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là chi bộ cùng chính quyền và đoàn thể, nhân dân Bình Hoà Bắc đã kiên cường đấu tranh chống lại kẻ thù. Nhiều cán bộ bám trụ để duy trì hoạt động và lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương, mặc dù bị kẻ thù liên tục đàn áp, khủng bố. Trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhiều đồng chí lãnh đạo, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh anh dũng trên mãnh đất quê hương. Thời kỳ đấu tranh xuyên suốt trên địa bàn xã, lực lượng ta đã kềm chế các cuộc hành quân càn quét của địch, ngăn không cho chúng đánh sâu vào vùng căn cứ cách mạng. Là một trong những địa bàn đóng quân của nghĩa quân từ sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ-1940, Bình Hoà Bắc là mục tiêu đánh phá tàn bạo của kẻ thù. Chúng sử dụng nhiều lực lượng, phương tiện từ đường thủy đến đường bộ để càn quét hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng trú đóng nơi đây. Mặc dù bị càn quét dữ dội, lực lượng cách mạng vẫn kiên trì bám trụ, tổ chức đánh địch gây cho chúng những thiệt hại đáng kể, giữ vững vùng căn cứ, làm bàn đạp tiến công địch khi có thời cơ thuận lợi. Nhìn chung, trong kháng chiến chống Pháp, cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân Bình Hoà Bắc đã thể hiện tinh thần bất khuất, chiến đấu kiên cường, góp phần cùng nhân dân cả nước đánh bại thực dân Pháp, giành độc lập tự do cho dân tộc.
Bước sang thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cán bộ, đảng viên và quân dân Bình Hoà Bắc lại đương đầu với kẻ thù hùng mạnh nhất lúc bấy giờ với đầy đủ phương tiện chiến tranh hiện đại nhất. Là căn cứ cách mạng từ thời chống Pháp, Mỹ -ngụy xem Bình Hoà Bắc là mục tiêu cần phải tiêu diệt để xoá bỏ vùng căn cứ kháng chiến của ta. Địch tập trung nhiều lực lượng tinh nhuệ, đưa những tên tay sai ác ôn đến đây để đàn áp phong trào cách mạng, làm bàn đạp tấn công vào Bình Thành-căn cứ của Tỉnh ủy Long An trong suốt thời kỳ chống Mỹ xâm lược. Chính vì vậy, Bình Hoà Bắc là địa bàn tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch, nhiều trận đánh ác liệt đã diễn ra, nhiều đồng chí lãnh đạo, cán bộ, đảng viên, du kích và nhân dân đã anh dũng hi sinh để bảo vệ Tổ quốc.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vai trò của nhân dân đối với cuộc kháng chiến là hết sức quan trọng. Nhân dân nơi đây một lòng một dạ trung thành với Đảng, với cách mạng. Chính họ đã bảo vệ, nuôi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho các đồng chí lãnh đạo, cán bộ, đảng viên, du kích... bám trụ điạ bàn. Nhiều cơ sở cách mạng đã đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ hoạt động, trực tiếp tham gia đấu tranh trực diện với kẻ thù, góp phần tiêu diệt kẻ thù. Trong 21 năm đánh Mỹ diệt ngụy, dưới sự lãnh đạo của chi bộ, quân và dân Bình Hoà Bắc đã chiến đấu kiên cường, lập nên nhiều chiến công quan trọng, phối hợp với lực lượng vũ trang của trên, góp phần không nhỏ cho sự nghiệp giải phóng quê hương, thống nhất đất nước.
2. Đặc điểm tự nhiên:
Là một trong những vùng đất được khai phá tương đối muộn so với những nơi khác nhưng làng Bình Hoà (gồm Bình Hoà Bắc và Bình Hoà Nam hiện nay) có những đặc điểm tự nhiên nổi bật. Trên địa bàn xã được phân chia thành 03 vùng rõ rệt, đó là vùng đất giồng, vùng đất bưng và đất ven sông.
Vùng đất giồng (gồm Giồng Đế, Giồng Mỏ Heo, Giồng Lớn, Giồng Nhỏ...thuộc ấp An Hoà, Hoà Tây) cơ bản là vùng sản xuất nông nghiệp, trồng các loại hoa màu. Thời kỳ đầu Pháp xâm lược Việt Nam, vùng đất này được các ông chủ Tây(người Pháp)khai khẩn để trồng cao su.Tuy nhiên, đến khi khai thác thì không hiệu quả (khi cây cao su trưởng thành, tiến hành thu hoạch thì cạo không ra mủ cao su); sau khi Hội đồng Sầm mua lại vùng đất này, ông ta cho đốn cây cao su làm củi và khai thác để trồng lúa. Vùng đất này, lúa canh tác mỗi năm một vụ (vào mùa mưa) vì phụ thuộc vào thời tiết, năm nào trời khô hạn thì việc mất mùa là không tránh khỏi. Ruộng vườn của Hội đồng Sầm cò bay thẳng cánh, gồm có 32 lô, mỗi lô 25 mẫu (01 mẫu là 10.000 m2), một nửa ở Bình Hoà Bắc, một nửa ở Bình Thành. Ngoài Hội đồng Sầm, đất đai của những tên địa chủ như Cả Huê, Cả Cường... chiếm số lượng lớn của vùng đất giồng. Bên cạnh việc trồng lúa, đất giồng còn có thể trồng các loại cây ăn trái như Mãng Cầu ta, Trầu, Cau... Với đặc điểm tự nhiên là vùng đất cao, thích hợp cho việc sản xuất nông nghiệp, nên phần lớn cư dân của làng Bình Hoà tập trung nơi đây khá lớn, họ sống chủ yếu bằng nghề nông, một số buôn bán nhỏ và chăn nuôi.
Vùng đất bưng (gồm Rọc Sình, Bàu Sến, Đìa Giây, Đìa Sen...thuộc ấp Chánh, ấp Tân Hoà) là vùng ngập nước quanh năm, nơi sâu khoảng 02 m. Đây là vùng có nhiều loại thực vật như tràm, đưng, năn, bàng, các loại cỏ dại. Bên dưới là nguồn thủy sản vô kể như cá, rắn, rùa...Đất vùng bưng là đất phèn chua, không thích hợp cho việc trồng trọt. Để định cư được vùng đất này, người dân đào kinh, rạch dẫn nước phèn ra sông Vàm Cỏ Đông. Từ đó, khu vực rạch Bần, rạch Ba Thắt, rạch Cần Giè...chạy từ Rọc Sình qua kinh Xáng (Bình Hoà Nam) là những khu vực dân cư sinh sống nhiều hơn những khu vực khác của vùng bưng. Đối với những nơi đào kinh xả được phèn thì người dân có thể trồng được mía(dọc theo sông Vàm Cỏ Đông). Với đặc điểm trên, người dân vùng đất bưng sống chủ yếu vào việc đánh bắt thủy sản, làm nghề thủ công truyền thống (đan đệm bàng), trồng trọt, trao đổi, buôn bán và một bộ phận làm thuê.
Vùng ven sông (vùng này phía Bắc giáp Mỹ Thạnh Đông, phía Nam giáp xã Bình Hoà Nam, gồm một phần ấp Chánh, một phần ấp An Hoà). Đặc điểm của vùng này là sông, rạch chằng chịt, cách sông Vàm Cỏ Đông khoảng 01km là vùng chuyên canh để trồng mía cung cấp cho nhà máy đường Hiệp Hoà. Có thể nói đây là nguồn nguyên liệu khá lớn cho nhà máy đường bởi vì thời bấy giờ, phương tiên vận chuyển còn khó khăn, nguồn nguyên liệu tại chổ (nơi đây gần nhà máy)là hết sức cần thiết. Phần lớn người dân trồng mía và làm thuê (chăm sóc, thu hoạch và chuyên chở mía đến nhà máy). Bên cạnh đó, một bộ phận người dân làm nghề truyền thống như đan đệm bàng, một bộ phận buôn bán nhỏ.
Nhìn chung, với đặc điểm tự nhiên khá đặc thù so với nhiều nơi khác, Bình Hoà Bắc là một trong những địa phương có lợi thế cũng như một số trở ngại trong thời kỳ khai phá, trong quá trình xây dựng và bảo vệ quê hương.
II. QUÁ TRÌNH ĐỊNH CƯ, KHAI PHÁ:
1. Tiến trình thay đổi địa giới hành chính:
Quá trình khai phá vùng đất Bình Hoà cách nay đã hơn 300 năm, do vậy về địa giới và tên gọi hành chính cũng có nhiều thay đổi. Dưới thời chúa Sải Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635), khi quân nhà Nguyễn lập đồn binh ở Prây-no-kor (1623) thì người Việt đã sống ở đây khá đông đúc. Họ sinh sống hoà chung với người bản địa vùng đất này (chủ yếu là người Khơ-mer)
Mùa xuân năm Mậu Dần thứ 8 (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược vùng đất phía Nam, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong việc xác lập đơn vị hành chánh đầu tiên trên đất Nam Bộ ngày nay. Lúc bấy giờ người Việt ở phía Nam lên đến khoảng 4 vạn hộ. Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Đông Phố làm Phủ Gia Định, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dinh là Trấn Biên (Biên Hoà); xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dinh là Phiên Trấn (Gia Định); bổ nhiệm quan lại cai trị; vùng đất Long An ngày nay thuở ấy nằm trong huyện Tân Bình, dinh Phiên Trấn.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định. Năm 1808, trấn Gia Định được đổi là thành Gia Định.Thành Gia Định với 05 trấn mới lập là: Phiên An, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên. Cũng trong năm này, huyện được thăng làm phủ, tổng được thăng làm huyện. Bấy giờ, huyện Tân Bình được nâng lên thành phủ gồm 04 huyện: Bình Dương,Tân Long,Thuận An, Phước Lộc. Vùng đất Bình Hoà Bắc lúc bấy giờ là làng Bình Hoà, một trong 76 làng của tổng Bình Trị, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, trấn Phiên An, thành Gia Định. Bình Hoà nằm trong địa giới hành chính này cho đến 1859, khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam thì việc phân bố hành chính được sắp xếp lại.
Sau khi chiếm 03 tỉnh miền Tây Nam Kỳ và thiết lập xong bộ máy cai trị ở Nam Kỳ, ngày 05-06-1867, thực dân Pháp ra Nghị định lập 06 tỉnh Nam Kỳ thành 24 Khu tham biện.Thời gian này, thực dân Pháp rất chú trọng đến cấp tổng và lập thêm một số tổng mới. Làng Bình Hoà lúc bấy giờ thuộc tổng Cửu Cư Thượng, huyện Tân Long, thuộc Khu Tham biện Chợ Lớn.
Năm 1877, tổng Cửu Cư Thượng được trả về cho huyện Cửu An, làng Bình Hoà thuộc tổng Cửu Cư Thượng, huyện Cửu An, Khu Tham biện Tân An. Ngày 20-10-1899, chế độ tham biện được thay bằng chế độ Tỉnh trưởng; Khu tham biện Tân An trở thành tỉnh Tân An. Năm 1920, huyện Cửu An đổi thành huyện Thủ Thừa. Làng Bình Hoà thuộc tổng Cửu Cư Thượng, huyện Thủ Thừa, tỉnh Tân An.
Trong thời gian từ 1945-1954, về phía địch không có sự thay đổi về địa giới hành chính. Về phía ta, vào năm 1947, làng Bình Hoà được tách ra để thành lập thêm 2 xã mới là Bình Hoà Bắc và Bình Hoà Nam. Giửa năm 1947,Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ ra quyết định thành lập khu Đông Thành (trước đó gọi là Quân khu Đông thành vì Bộ tư lệnh Khu 7 từng có thời gian đóng trên địa bàn Đức Huệ -khu vực xã Mỹ Thạnh Tây ngày nay) trực thuộc Khu 7 gồm các xã ven sông Vàm Cỏ Đông như sau: Mỹ Thạnh Đông,Thạnh Lợi, Bình Hòa, Bình Thành, Mỹ Quý. Khu Đông Thành được thành lập với vai trò và vị trí khá quan trọng, là nơi đóng quân của nhiều cơ quan lãnh đạo của Xứ ủy, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ, Bộ Tư lệnh Khu 7...Bộ máy hành chánh của khu Đông Thành tương đương như một tỉnh. Năm 1949, khu Đông Thành được đổi tên thành huyện Đông Thành, thuộc tỉnh Chợ Lớn. Năm 1951, huyện Đông Thành nhập với huyện Đức Hòa, lấy tên là huyện Đức Hòa Thành, thuộc tỉnh Gia Định Ninh.
Năm 1956, tổng thống ngụy quyền Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh 143/NV thành lập tỉnh Long An trên cơ sở sát nhập tỉnh Tân An và tỉnh Chợ Lớn. Lúc bấy giờ xã Bình Hoà Bắc thuộc quận Thủ Thừa, tỉnh Long An. Ngày 03-03-1959, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 48/NV/PTT thành lập quận Đức Huệ gồm 5 xã phía bắc quận Thủ Thừa và 03 xã của quận Đức Hòa. Theo sắc lệnh này, xã Bình Hoà Bắc thuộc địa giới quận Đức Huệ.
Tháng 10-1963, ngụy quyền Sài Gòn lại cắt hai quận Đức Hòa và Đức Huệ của tỉnh Long An nhập với quận Trảng Bàng của tỉnh Tây Ninh và quận Củ Chi của tỉnh Gia Định để thành lập tỉnh Hậu Nghĩa. Từ đó đến ngày miền Nam giải phóng, xã Bình Hoà Bắc thuộc địa phận quận Đức Huệ, tỉnh Hậu Nghĩa.Tuy nhiên, về phía cách mạng, xã Bình Hoà Bắc vẫn thuộc huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.
Ngày 03-03-1976, Hội đồng Nhà nước Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra quyết định thành lập tỉnh Long An, trên cơ sở sát nhập tỉnh Kiến Tường, tỉnh Long An và quận Đức Huệ, Đức Hòa thuộc tỉnh Hậu Nghĩa trước năm 1975. Từ đó đến nay, xã Bình Hoà Bắc thuộc huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.
2.Quá trình định cư, khai phá:
Trong phong trào “Nam tiến” của lưu dân người Việt vào khai phá vùng đất phía Nam, những cư dân đầu tiên đặt chân đến làng Bình Hoà có nguồn gốc từ miền Trung. Lưu dân người Việt tìm đến vùng đất mới bởi vì trên quê hương họ chiến tranh xảy ra liên miên giữa các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lợi. Tìm đến vùng đất phía Nam, lưu dân người Việt mỗi người vì lý do khác nhau: một số người không chịu đựng nỗi sự hà khắc của chế độ phong kiến, một số là tội nhân của triều đình, cảnh chiến tranh xảy ra liên tiếp giữa các tập đoàn phong kiến...Mong muốn một cuộc sống tốt đẹp, thoát khỏi sự lầm than, cơ cực, họ quyết tâm tìm đến vùng đất mới để mưu sinh lập nghiệp.
Với đặc tính của người miền Trung cần cù, chịu khó, ham học hỏi khám phá, những lưu dân người Việt đặt chân đến vùng đất mới mặc dù giàu tiềm năng nhưng hết sức khắc nghiệt bởi nơi đây là vùng ngập lụt hàng năm, rừng thấp, nhiều thú dữ...Để thích ứng và trụ lại vùng đất mới, họ lao động cần cù, chống chọi lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên, từng bước ổn định cuộc sống. Đến vùng đất mới với số lượng còn ít ỏi, lưu dân người Việt đoàn kết, gắn bó, luôn giúp đỡ nhau dần dần tạo nên những xóm, ấp và sau đó là cộng đồng dân cư. Do điều kiện vật chất còn rất hạn chế vì vậy những cư dân đầu tiên đến Bình Hoà phải làm việc cật lực. Để tồn tại ở vùng đất mới, lưu dân đã trải qua bao gian truân, nhiều sinh mạng đã gửi lại vùng đất vừa khai phá hãy còn hoang sơ, nhiều thú dữ, thưa thớt bóng người.
Các lưu dân theo phương tiện đường bộ thường cư trú dọc theo các giồng cao, trục đường giao thông chính, họ sống chủ yếu nhờ vào khai phá đất hoang để sản suất nông nghiệp, trồng trọt và chăn nuôi (chủ yếu là các vùng đất giồng hiện nay). Những cư dân đến bằng đường thủy họ cư trú ven sông, cuộc sống chủ yếu dựa vào nguồn thủy sản địa phương: đánh bắt cá, thú rừng và trao đổi, buôn bán với những nơi khác (đa số cư trú dọc theo vùng ven sông ở Bình Hoà Bắc hiện nay).
Để thích nghi và thuận tiện cho việc canh tác nông nghiệp, người dân cư trú xen lẫn những đồng ruộng của mình. Đây là một trong những hình thức cư trú khá phổ biến ở Nam bộ nói chung và tại làng Bình Hoà nói riêng. Họ tạo dựng cuộc sống ngay trên thửa ruộng của mình đã được khai phá nhằm hạn chế thời gian đi lại bởi vì lúc bấy giờ việc di chuyển vô cùng khó khăn, trắc trở vì đường giao thông hầu như chưa có gì. Nhìn chung, những lớp cư dân đầu tiên đến vùng đất mới để khai phá và định cư đã tạo nền vững chắc cho các thế hệ sau, chính họ đã đặt nền tảng vững chắc cho cộng đồng dân cư phát triển về sau này. Những thử thách và gian truân cũng như những thành quả đầu tiên mà họ mang lại rất đáng trân trọng: từ vùng hoang sơ, nhiều thú dữ, dưới sự lao động sáng tạo miệt mài, vùng đất mới đã được khai phá và phục vụ nhu cầu con người, tạo lập nền tảng cho quá trình phát triển xã hội về sau. Các thế hệ tiếp theo cho đến mai sau luôn ghi nhớ công lao của lớp người đầu tiên “khai đất, mở đường”, mở đầu cho quá trình phát triển thành xóm, làng và cộng đồng dân cư.
Cho đến thời điểm hiện nay, chưa có một cứ liệu khoa học nào xác định thời gian chính xác những lưu dân người Việt đầu tiên đến Đức Huệ nói riêng và cả Nam Bộ nói chung. Việc xác lập tổ chức hành chính vùng đất phía Nam năm 1698 do Nguyễn Hữu Cảnh phân định là việc đã rồi vì trước đó đã có người Việt sinh sống nơi đây (trên 40.000 hộ). Căn cứ vào mốc lịch sử này, khẳng định vùng đất Đức Huệ thời bấy giờ đã có lưu dân người Việt đến khai phá và định cư. Tìm đến vùng đất mới buổi đầu còn hoang sơ: là vùng ngập lụt, rừng thấp với các loại thực vật như tràm, năn, bàng, cỏ dại… là những chướng ngại đối với lưu dân người Việt. Đặc biệt, vùng đất này rất nhiều muỗi “Muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội tợ bánh canh”, đó là những thử thách khắc nghiệt mà lưu dân phải trải qua để trụ lại trên vùng đất mới. Thời gian đầu khai phá, việc trồng lúa là chủ yếu. Bên cạnh đó trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt thủy sản, trao đổi, mua bán với những vùng khác...đã được lưu dân người Việt ở làng Bình Hoà phát huy nhằm ổn định cuộc sống. Những cải tiến về công cụ sản xuất, kinh nghiệm sản xuất được lưu dân tiếp cận một cách nhanh chóng. Mặc khác, những giá trị về văn hoá của bản xứ được lưu dân mang vào kếp hợp với điều kiện, phong tục nơi đây tạo cho họ có một đời sống tinh thần khá phong phú. Nhìn chung, trải qua gần một thế kỷ tiến về phía Nam, lưu dân người Việt chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình, đã để lại dấu ấn văn hóa vật chất và tinh thần ở vùng đất mới để trở thành nhân tố quyết định sự phát triển đối với vùng đất này.
Vào những thập niên cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, những biến cố trọng đại của lịch sử Việt Nam đã diễn ra. Sau khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, khôi phục lại quyền thống trị của họ Nguyễn (1802) thì cả Việt Nam (trong đó có phần đất phía Nam) được sự cai quản của chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Việc khai phá vùng đất mới giờ đây chính thức đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền phong kiến triều Nguyễn. Nhà Nguyễn rất chú trọng đến vấn đề khai hoang, khẩn hoang, đặc biệt là ở vùng đất Nam bộ. Triều đình Nguyễn ban hành hàng loạt chính sách khuyến nông nhằm khuyến khích nhân dân, lực lượng tội phạm khai khẩn ruộng đất. Trong số 25 quyết định được ban hành về tổ chức khai hoang trên cả nước, riêng ở Nam Bộ chiếm đến 16 quyết định. Điều đó chứng tỏ nhà Nguyễn đặc biệt quan tâm đến vùng đất mới khai phá tuy khắc nghiệt nhưng rất giàu tiềm năng này. Có rất nhiều biện pháp khuyến khích khai hoang: mộ dân khai hoang lập làng mới; miễn thuế 3 năm đầu hoặc lâu hơn nữa; dùng lực lượng tù phạm vừa sử dụng sức lao động vừa cải tạo họ…Với những chính sách như thế, khoảng hơn 30 năm sau ngày cai quản đất nước từ Bắc đến Nam (1802-1836), diện tích đất sản xuất nông nghiệp tăng lên đáng kể trong đó nhiều nhất là vùng đất Nam Bộ.
Để kiểm soát phần lớn đất đai đã được khai hoang, năm 1836 vua Minh Mạng cử một phái đoàn kinh lý quan trọng do Khâm sai đại thần Trương Đăng Quế dẫn đầu tiến hành “lập lại trật tự” ruộng đất ở Nam bộ thông qua việc đo đạc ruộng đất để lập địa bạ. Căn cứ vào địa bạ được lập năm 1836 ở vùng đất Nam bộ (trong Địa Bạ Triều Nguyễn-tỉnh Gia Định của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu) thì tình hình khai phá vùng đất Bình Hoà được ghi nhận như sau:
-Đông giáp địa phận thôn Phú Mỹ(Bình Thạnh Thượng), lại giáp thôn Thạnh Đa và sông lớn (Vàm Cỏ Đông).
-Tây giáp địa phận thôn Phú Nhuận và xã Hanh Thông, lấy sông nhỏ làm giới.
-Nam giáp sông nhỏ và địa phận thôn Thạnh Đa.
-Bắc giáp địa phận xã Hanh Thông, có lập cột gỗ làm giới, lại giáp rạch nước nhỏ và địa phận thôn Hanh Phú.
Thực canh ruộng đất các loại hạng là 216.7.3.0 tức là 216 mẫu, 7 sào, 3 thước, o tấc.
Ghi chép như trên cho thấy rằng vào năm 1836, làng Bình Hoà (Bình Hoà Bắc và Bình Hoà Nam ngày nay) đã được khai phá 216 mẫu ta (Một mẫu ta bằng 4.894m2). Như vậy vào thời điểm năm 1836, vùng đất Bình Hoà khai phá được khoảng 1.080 hecta (ha) so với diện tích toàn xã hiện nay là 3.607 ha. Gần 200 năm khai phá, cho đến thời điểm hiện nay, diện tích của Bình Hoà Bắc tăng lên đáng kể, gấp 03 lần so với thời điểm 1836; diện tích tăng từ 1.080 ha lên đến 3.670 ha (chưa kể diện tích của Bình Hoà Nam hiện nay). Cùng với quá trình khai khẩn đất hoang để để sản xuất, mọi mặt về đời sống, văn hóa, xã hội ở Bình Hoà Bắc cũng từng bước được cải thiện. Những xóm ấp ngày càng nhiều hơn, dân số ngày càng gia tăng tạo nên một cộng đồng dân cư đi vào lề lối ổn định dưới trật tự của xã hội phong kiến đương thời.
Tuy nhiên, mặc dù cố hết sức, dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn, nền sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn còn rất lạc hậu. Bên cạnh đó, nạn ngoại xâm phương Tây luôn dòm ngó làm cho nhà Nguyễn phải đương đầu với bao khó khăn chồng chất. Nằm trong bối cảnh chung của đất nước lúc bấy giờ, người dân Bình Hoà nói riêng và cả Nam bộ nói chung có cuộc sống lầm than cơ cực bởi sự bóc lột của bọn cường hào, địa chủ cũng như thiên tai mất mùa, bệnh tật...Trong giai đoạn này (cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX) với chính sách khuyến khích sản xuất của nhà Nguyễn, vùng đất Nam bộ nói chung và tại Bình Hoà nói riêng được mở mang đáng kể. Đồng ruộng đã trải rộng, nhà cửa được xây cất khá nhiều (chủ yếu trên các giồng cao và ven sông), đời sống người dân ít nhiều được cải thiện, xã hội đã đi vào nề nếp, có sự quản lý nhà nước ở những lĩnh vực nhất định. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ thứ XX, việc khai phá vùng đất tại làng Bình Hoà về cơ bản đã hoàn thành, nó có dáng mạo gần như địa bàn xã Bình Hoà Bắc và Bình Hoà Nam ngày nay.
Những thập niên đầu của thế kỷ XX, đa số người dân từ Thủ Dầu Một ( Bình Dương ngày nay) đã đến vùng ven sông Vàm Cỏ Đông thuộc xã Bình Hoà Bắc để khai hoang lập nghiệp và định cư lâu dài. Họ đã trồng mía, trồng cây ăn trái để ổn định và phát triển cuộc sống qua nhiều thế hệ. Tương tự, vùng đất giồng thuộc xã Bình Hoà Bắc, người dân từ Bến Lức, Thủ Thừa đã đến khai hoang làm ruộng, chăn nuôi đã làm cho dân số xã Bình Hoà Bắc tăng lên đáng kể, cuộc sống nơi đây ngày càng phát triển và hình thành một cộng đồng dân cư ổn định.
Trải qua thời gian khá dài hơn 03 thế kỷ, quá trình khai phá vùng đất Bình Hoà của cư dân người Việt là bằng chứng của thời kỳ khai hoang, lập làng và khả năng lao động đầy sáng tạo của những lớp cư dân đầu tiên đến vùng đất này. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, bị kìm hãm bởi trình độ, kỹ thuật còn hạn chế, nhất là thiết chế xã hội phong kiến còn lạc hậu.Thế nhưng, những lớp cư dân đầu tiên đã để lại những thành quả to lớn trong quá trình khẩn hoang lập ấp, quá trình ổn định và phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội.Từ một vùng hoang sơ, rừng thấp, ngập mặn, thú dữ...với bàn tay và khối óc, lưu dân người Việt đã biến vùng đất Bình Hoà từ hoang vu thành đồng ruộng, hình thành xóm, ấp và cuộc sống ngày càng phát triển. Hơn 300 năm khai phá và xây dựng, biết bao mồ hôi, nước mắt, biết bao sinh mạng đã để lại vùng đất mới để giành lấy sự tồn tại và phát triển cho các thế hệ tiếp theo.
III.TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO
1.Tín ngưỡng:
Lưu dân người Việt từ miền Trung vào đến vùng đất Bình Hoà để mưu sinh lập nghiệp, ngoài hành trang mang theo các phương tiện vật chất phục vụ cuộc sống, đối với họ, yếu tố tinh thần không thể thiếu.Vào vùng đất mới, họ mang theo truyền thống văn hóa lâu đời của nơi “chôn nhao cắt rốn”. Đến vùng đất mới với hiện thực thiên nhiên bao la, với những tín ngưỡng sẵn có của vùng đất bản xứ, tín ngưỡng của họ dần dần thích nghi với vùng đất phía Nam mới khai phá. Đối với người Việt nói chung và lưu dân người Việt tại Bình Hoà nói riêng, hiếu nghĩa tổ tiên được đặt lên hàng đầu. Sự thờ cúng tổ tiên, công ơn cha mẹ đượm phần sâu nặng. Đến vùng đất phía Nam tuy màu mở nhưng cũng đầy cam go bất trắc, để trụ lại nơi đây biết bao sinh mạng đã vùi thây để vun đắp cho vùng đất mới sinh sôi nảy nỡ. Sự thể hiện tôn thờ tổ tiên cha mẹ là nơi thờ phụng được đặt nơi trang trọng nhất trong nhà (gian giữa) dù gia cảnh giàu sang hay nghèo khó. Đối với lưu dân người Việt, ngoài hiếu nghĩa tổ tiên, trong tâm thức họ còn mang nặng sự đền ơn đáp nghĩa đối với những người xả thân vì nước, họ được xem như anh hùng dân tộc. Khi hy sinh hoặc mất đi, họ được lập miếu thờ như những thần linh ở địa phương.
Tại Bình Hoà Bắc hiện có 01 ngôi đình và 02 miếu thờ:
Đình thần ấp Chánh thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh.
Miếu ông Lê Công Trình ở ấp Hoà Tây và ấp An Hoà, là nơi thờ ông Lê Công Trình [2]( có nơi gọi là Lê Tử Trình) , người có công chống giặc giữ nước theo truyền thuyết dân gian. Hàng năm, dân làng tổ chức Lễ cúng ông vào ngày 16 tháng Giêng âm lịch khá long trọng, thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn" từ ngàn xưa của dân tộc Việt Nam. Trước đây, khi tổ chức lễ cúng Ông, Hội Miếu (nay gọi là Ban quản trị) có mời gánh hát bội về biểu diễn, phục vụ đời sống tinh thần nhân dân. Trải qua thời kỳ chiến tranh, việc tổ chức cúng Ông bị hạn chế ít nhiều. Sau ngày hoà bình thống nhất, việc cúng Ông có những năm rơi vào quên lãng bởi vì nhân dân phải khắc phục hậu quả của chiến tranh. Từ thập niên 80 (thế kỷ XX) đến nay, lễ cúng Ông được duy trì thường xuyên, thông thường 03 năm đáo lệ tổ chức long trọng. Lễ cúng Ông được xem như ngày hội của nhân dân trong xã, thể hiện sự gắn kết cộng đồng, tưởng nhớ các vị anh hùng có công vì dân vì nước.
2. Tôn giáo:
So với những địa phương khác ở Đức Huệ, tôn giáo có mặt ở Bình Hoà Bắc từ khá sớm. Khi những ông chủ người Pháp đến khai khẩn vùng đất Bình Hoà Bắc để trồng cây cao su thì có một vài giáo sĩ theo chủ Tây đến đây để truyền đạo và từ đó, những giáo dân theo đạo Thiên Chúa ở địa phương xuất hiện nhưng tín đồ còn hạn chế. Riêng đạo Cao Đài xuất hiện ở Bình Hoà Bắc khoảng thời gian 1930-1945 nhưng có ít tín đồ.
*Đạo Thiên Chúa:
Đạo Thiên Chúa xuất hiện khá sớm ở Khu Hội đồng Sầm thời thuộc Pháp, nhưng tín đồ còn hạn chế. Đạo Thiên Chúa với tôn chỉ từ bi, bác ái, sự chịu đựng nhẫn nhục của con người trước nghịch cảnh...phần nào làm dịu đi những cảnh đời bị áp bức, bóc lột. Vì vậy, một số người dân địa phương tin vào Đức Chúa Trời, cầu Chúa ban phúc cho cuộc sống ngày càng tốt hơn. Mặc khác, do người Pháp có mặt ở vùng đất này khá sớm, vào nửa cuối thế kỷ XIX, vì vậy đạo Thiên Chúa xuất hiện tại Bình Hoà Bắc là lẻ tự nhiên bởi vì người Pháp đa số đều theo đạo Thiên Chúa. Vào thời kỳ này, giáo dân có khoảng vài chục tín đồ. Đến khi Ngô Đình Diệm được đế quốc Mỹ hậu thuẩn phế truất Bảo Đại lên làm tổng thống ngụy quyền ở miền Nam Việt Nam thì giáo dân từ Bắc vào Nam rất đông. Lúc bấy giờ, vùng Đức Hoà, Đức Huệ nói chung và tại Bình Hoà Bắc nói riêng, người dân theo đạo Thiên Chúa khá cao (khoảng 100 tín đồ).Tuy nhiên, do chiến tranh và hoàn cảnh của địa phương, người dân theo đạo ngày càng giảm bớt. Hiện nay, tại Bình Hoà Bắc có khoảng 20 tín đồ đạo Thiên Chúa, tập trung nhiều nhất là ấp Hoà Tây.
*Đạo Cao Đài:
Đạo Cao Đài là một tôn giáo khá đặc biệt, kếp hợp giáo lý của Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo. Được thành lập năm 1926, chỉ vài năm sau, đạo Cao Đài phát triển rộng khắp lục tỉnh Nam kỳ nhất là các tỉnhTây Ninh, Long An, Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, An Giang...
Về giáo lý, đạo Cao Đài mang tính “hổn dung” của nhiều tôn giáo. Đạo Cao Đài là sự kết hợp đạo lý nhiều tôn giáo: từ bi bác ái của đạo Phật, công bằng nhân nghĩa của đạo Nho, phù phép thần tiên của đạo Lão, thanh khiết nhẫn nhục của Chúa (đạo Thiên Chúa). Mặt khác, đạo Cao Đài giống như một tổ chức hành chánh của bộ máy nhà nước bao gồm: Bác Quái Đài, Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài. Đạo Cao Đài gắn chặt với bộ máy nhà nước của chính quyền thực dân vì vậy nguồn kinh phí xây dựng các thánh thất được thực hiện nhanh chóng, kéo theo số tín đồ theo đạo ngày càng đông. Đạo Cao Đài giai đoạn đầu khá phát triển (1926 - 1940) sau đó dần dần chậm lại.
Đạo Cao Đài xuất hiện ở Bình Hoà Bắc khoảng từ 1930-1945, nhưng có khá ít tín đồ. Những năm đầu kháng chiến chống Mỹ-ngụy (1955-1959), một số người dân trở thành tín đồ đạo Cao Đài. Những người tham gia theo đạo để mượn danh nghĩa giáo phái chống lại Mỹ -Diệm. Sau khi Mỹ-Diệm thẳng tay đàn áp các tôn giáo, trong đó có đạo Cao Đài thì người dân theo đạo ngày càng giảm hẳn. Hiện nay, tại Bình Hoà Bắc chỉ còn khoảng 10 tín đồ. Với chính sách đoàn kết và hoà hợp các tôn giáo của Đảng và nhà nước ta, tín đồ đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Cao Đài và tín đồ các tôn giáo khác luôn đoàn kết, gắn bó, tôn trọng nhau trong đời sống tinh thần của mỗi tôn giáo, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhìn chung, tín đồ các tôn giáo ở Bình Hoà Bắc hoạt động lành mạnh, không bài xích lẫn nhau, họ không tham gia vào các hoạt động chính trị, họ hòa mình vào cuộc sống cộng đồng như bao người dân khác ở địa phương. Trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, các tín đồ tôn giáo ở Bình Hoà Bắc đều cầu mong đấng linh thiêng của tôn giáo mình phù hộ cho cuộc chiến tranh sớm kết thúc, đất nước được độc lập, quê hương hoàn toàn giải phóng. Đặc biệt, một số tín đồ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, họ đã tham gia cách mạng đánh đuổi quân xâm lược.Trong số họ, một số tín đồ đã ngã xuống mảnh đất thân yêu, tên tuổi họ được ghi nhận như những anh hùng liệt sĩ vì nước quên mình. Đó chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta: các tôn giáo ở nước ta đã cùng dân tộc ta đoàn kết đánh thắng mọi thế lực xâm lược giải phóng quê hương, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa. (Ngoại trừ một số ít phần tử phản động lợi dụng tôn giáo để trục lợi cho riêng mình).
IV.TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC TRƯỚC KHI ĐẢNG RA ĐỜI:
Vào khoảng giữa thế kỷ XIX, thực dân phương Tây tiến hành xâm lược các nước Châu Á để chiếm làm thuộc địa nhằm khai thác tài nguyên phục vụ cho nền kinh tế chính quốc. Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên xâm lược nước ta tại cửa biển Thuận An- Đà Nẵng, mở đầu cho một trang sử bi hùng của dân tộc Việt Nam.
Vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của quân ta, thêm vào đó là việc binh lính bị bệnh dịch vì không hợp thời tiết, khí hậu và thổ nhưỡng, thực dân Pháp đã chuyển hướng, đem tàu bè theo sông Sài Gòn, tấn công chiếm thành Gia Định vào ngày 17- 02-1859. Sau khi thành Gia Định thất thủ, triều đình Huế một mặt kêu gọi các hào mục Nam Kỳ chiêu mộ tướng dũng đánh Pháp, mặt khác cử tướng Nguyễn Tri Phương làmTổng đốc Quân vụ đại thần chuyên trách mặt trận Gia Định.Theo kinh nghiệm đánh Pháp ở Đà Nẳng, Nguyễn Tri Phương đã lập Đại đồn Chí Hòa để bao vây quân Pháp, không cho chúng đánh rộng ra xung quanh.
Ngày 25- 02-1861, viện binh Pháp từ Trung Hoa kéo sang đã hợp cùng lực lượng Pháp đồn trú ở Sài Gòn phá vỡ Đại đồn Chí Hòa của triều đình Nguyễn và mở rộng việc đánh chiếm các địa phương xung quanh thành Gia Định. Quân lính triều Nguyễn ở Định Biên (Gia Định - Biên Hòa) phải rút về Biên Hòa, bỏ lại khu vực Nam Sài Gòn cho giặc Pháp.Thừa thắng quân nhà Nguyễn khá dễ dàng, vào tháng 03-1861, giặc Pháp đã xua quân chiếm trọn vùng đất từ Sài Gòn đến Mỹ Tho trong đó có làng Bình Hoà.
Mặc dù chiếm ưu thế về lực lượng và phương tiện chiến tranh, quân xâm lược Pháp vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của các sĩ phu và thủ lĩnh yêu nước khắp Nam Kỳ. Vùng Tân An có nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực, Trà Quý Bình; Chợ Lớn có nghĩa quân của Bùi Quang Diệu, Phạm Tuấn Phát; vùng Đồng Tháp Mười có Võ Duy Dương; vùng Gò Công có nghĩa quân Trương Định; vùng Mỹ Tho có nghĩa quân Nguyễn Hữu Huân; vùng Cao Lãnh có nghĩa quân Nguyễn Tấn Kiều…
Theo truyền thuyết dân gian, Lê Công Trình là người có công đánh giặc trong hàng ngũ kháng chiến chống thực dân Pháp nửa sau thế kỷ XIX. Trong một lần giao chiến ác liệt với quân Pháp, vì sức yếu thế cô, ông và nghĩa quân phải từ vùng Đồng Tháp Mười lui dần về vùng đất Đức Huệ ngày nay. Sau cùng, chỉ một mình ông chạy đến Giồng Đế. Lúc bấy giờ vào mùa khô, cả vùng này là đồng khô cỏ cháy, không có nước uống nên ông lấy lá sen đội đầu, ngồi dựa vào một gốc cây cổ thụ rồi mất. Nhân dân địa phương kính phục tinh thần dũng cảm, quyết chiến tới phút cuối cùng của ông nên lập miếu thờ, gọi là Miếu Ông tại nơi ông hy sinh là Giồng Đế (Ấp 4, xã Mỹ Thạnh Đông). Hàng năm, nhân dân nơi đây đã long trọng tổ chức lễ cúng ông Lê Công Trình vào ngày 15-16 tháng Giêng âm lịch.
Cũng trong thời gian đó, tại một số địa phương khác thuộc huyện Đức Huệ ngày nay, nhân dân cũng lập miếu thờ ông Lê Công Trình. Đó là Miếu Ông ở ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Thạnh Tây; Miếu Ông ở ấp 1, xã Mỹ Thạnh Bắc và Miếu Ông ở ấp Hoà Tây, ấp An Hoà xã Bình Hoà Bắc. Miếu ông Lê Công Trình ở Bình Hoà Bắc tổ chức Lễ cúng Ông vào ngày 15, 16 tháng Giêng âm lịch.
Về nhân vật Lê Công Trình, hiện chưa có một tài liệu lịch sử nào đề cập đến quê quán, thân thế và sự nghiệp của ông ngoài những truyền thuyết dân gian vừa nêu. Tuy nhiên, việc ông Lê Công Trình được lập miếu thờ với tên tuổi hẳn hoi cũng như căn cứ vào thời gian lập miếu (1861-1870) ít nhiều đã phản ánh thực trạng của phong trào võ trang kháng Pháp nửa cuối thế kỷ XIX ở đất Tân An xưa. Và trên hết là việc lập miếu thờ và tôn vinh ông Lê Công Trình như một nhân vật có công chống Pháp ở Đức Huệ (trong đó có Bình Hoà Bắc) trong hoàn cảnh lịch sử Việt Nam giai đoạn đầy biến động đã cho thấy nhân dân địa phương thể hiện thái độ chống Pháp ngay từ buổi đầu chúng xâm lược nước ta.Việc lập miếu thờ ông Lê Công Trình đã chứng minh cho tinh thần yêu nước nồng nàn và ý chí quật khởi của nhân dân Đức Huệ nói chung, nhân dân Bình Hoà Bắc nói riêng.
Vào đầu thế kỷ XX, xã hội Nam Kỳ có nhiều hoạt động yêu nước với tính chất “Hội kín” như “Hội kín” Phan Xích Long, sau đó là “Hội kín” Nguyễn An Ninh. Sau vụ bạo động Phan Xích Long (1913), thực dân Pháp đàn áp dã man những người tham gia. Toà Đại hình của Pháp đã kết tội tử hình 111 người, bắt và tù đày hàng trăm người khác.
Ngay sau đó, phong trào phá Khám Lớn (Sài Gòn) ngày 15-02-1916 do những hội viên“Hội kín” Phan Xích Long thực hiện để giải cứu cho Phan Xích Long và những người bị bắt đồng thời âm mưu đánh thẳng vào bộ máy cai trị Pháp tại Sài Gòn. Lực lượng tham gia hơn 300 người của các tỉnh Tân An, Chợ Lớn, Biên Hoà và một số nơi khác. Tại làng Bình Hoà, tổng Cửu Cư Thượng, ông Phan Văn Hảo và một số hội viên đã tham gia phong trào này. Tuy nhiên, việc phá khá Khám Lớn không thành, những người tham gia bị thực dân Pháp đàn áp rất dã man.
Tuy các phong trào yêu nước, chống Pháp thất bại nhưng đã thể hiện đỉnh cao của lòng căm hờn đối với bọn xâm lược, là hồi chuông báo hiệu của sự chấm dứt thời kỳ tạm ổn định của chính quyền thực dân, phong kiến trên đất Nam Kỳ. Tuy bị đàn áp nhưng tinh thần đấu tranh của nhân dân Nam Kỳ trong đó có nhân dân Bình Hoà Bắc không hề khuất phục.
Như vậy, phong trào võ trang yêu nước chống Pháp đến cuối thế kỷ XIX và các phong trào “Hội kín” những thập niên đầu thế kỷ XX đều bị thực dân Pháp đàn áp, khủng bố, những vị thủ lĩnh nghĩa quân và lãnh đạo phong trào phần lớn bị bắt và giết hại.Tuy nhiên, truyền thống chống ngoại xâm và tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân ta không hề bị khất phục, tinh thần đó càng được bồi đắp và trở thành khối đoàn kết thống nhất, đánh bại mọi kẻ thù xâm lược khi có một chính Đảng lãnh đạo. Đó là thời kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Chương II
BÌNH HOÀ BẮC TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG PHÁP DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
(1930-1954)
I.GIAI ĐOẠN 1930-1945:
1. Tổ chức Đảng ra đời, lãnh đạo phong trào cách mạng:
Sau khi Hoà ước Giáp Thân (1884) được ký kết thì toàn cỏi Nam Kỳ được xem là thuộc địa của Pháp.Thực dân Pháp đặt ách thống trị để tiến hành khai thác, mang của cải về phục vụ chính quốc. Để mở rộng hệ thống giao thông đường thủy lẫn đường bộ, nhiều kinh đào và các tuyến đường lần lượt ra đời khắp Nam Kỳ. Tại vùng đất Đức Huệ ngày nay, thực dân Pháp đã đào kinh Xáng, kinh Bo Bo để làm phương tiện khai thác nguồn lợi nông sản, thủy sản cũng như thuận tiện trong giao thông, chuyên chở hàng hoá...
Sau khi chiếm được Nam Kỳ, thực dân Pháp cho thiết lập bộ máy cai trị từ tỉnh đến phủ, huyện (sau đổi thành quận), tổng, xã (còn gọi là làng). Tại làng Bình Hoà, bọn hương chức(thường gọi Ban hội tề) gồm 12 vị, đứng đầu là Hương Cả, kế đến Hương Chủ, Hương Sư, Hương Trưởng (04 chức sắc cao cấp này là những người lãnh đạo của xã (làng), quản lý tài sản, lập ngân sách, giám sát thu chi, giám sát công việc các hương chức khác). Ngoài 4 vị chức sắc trên còn các vị thực thi công việc thường xuyên của xã như Hương Chánh, Hương Giáo, Hương Quản, Hương Bộ, Hương Thân, Xã Trưởng, Hương Hào. Đến năm 1927, Hương chức xã bổ sung thêm một ủy viên là Chánh lục bộ nâng số Ban hội tề của xã lên 12 người.
Thông qua Ban hội tề, chính quyền thực dân quản lý địa bàn xã khá chặt chẽ, người dân Bình Hoà sống trong cảnh bị áp bức, kiểm soát của bọn hương chức rất ngột ngạt. Bên cạnh đó, bọn địa chủ câu kết bọn hương chức bóc lột nhân dân thậm tệ. Nhiều luật lệ khắc khe, nhiều thứ thuế bất hợp lý do bọn chúng đặt ra làm bần cùng hoá người dân, nhất là người nông dân nghèo.Từ đó, nhân dân Bình Hoà vùng lên đấu tranh chống lại kẻ thù mà trực tiếp là bọn tề làng và bọn địa chủ thối nát. Tuy nhiên, những cuộc đấu tranh của nhân dân Bình Hoà lúc bấy giờ đều bị bọn thực dân và bè lũ tay sai dập tắt vì chưa có một đường lối đúng đắn, chưa có một giai cấp tiên tiến lãnh đạo.
Quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm cho đời sống người nông dân vốn đã cơ cực càng trở nên bần cùng. Đến đầu thế kỷ XX, trên địa bàn làng Bình Hoà (Bình Hoà Bắc và Bình Hoà Nam), phần lớn ruộng đất đều tập trung vào những tên địa chủ, cường hào. Tại ấp Hoà Tây, tên Nguyễn Văn Sầm (Hội đồng Sầm) là địa chủ rất giàu có, là người nắm trong tay phần lớn đất đai và tài sản thời bấy giờ. Hội đồng Sầm người gốc Bà Chiểu -Sài Gòn, đến làng Bình Hoà mua lại đồn điền cao su của những ông chủ Tây. Sau khi khai thác cao su không hiệu quả, Hội đồng Sầm cho phá bỏ cao su để làm lúa từ trước năm 1922. Toàn bộ đất đai là 32 lô, mỗi lô 25 mẫu, một nửa ở Bình Hoà, một nửa ở Bình Thành. Dinh thự và cơ sở vật chất của tên địa chủ này như kho tàng, tài sản và nhà cửa tập trung ở một khu khoảng 20 mẫu, người dân địa phương gọi là Khu Hội đồng Sầm. Ngoài Hội đồng Sầm, làng Bình Hoà còn một số địa chủ khác như Cả Cường, Cả Huê (ấp An Hoà), Nguyễn Văn Dành (Cả Sáu), Nguyễn Văn Bộ (trước thuộc làng Bình Hoà, nay thuộc xã Bình Hoà Nam). Bọn chúng cấu kết với nhau bóc lột nhân dân thậm tệ, hầu hết người dân làng Bình Hoà và một vài địa phương lân cận như Mỹ Thạnh Đông, Bình Thành...đều làm thuê cho chúng với đồng lương rẻ mạt.
Bên cạnh đó, người dân Bình Hoà trồng mía (vùng giáp với Mỹ Thạnh Đông và và dọc theo sông Vàm Cỏ Đông) để cung cấp nguyên liệu cho nhà máy đường Hiệp Hoà[3], thế nhưng cuộc sống của họ cũng rất khó khăn vì bọn chúng ép giá mía thấp, đời sống người dân ngày càng tăm tối...Đa số nông dân ở Bình Hoà đều không có ruộng đất, phải làm tá điền hoặc cày thuê, cuốc mướn cho địa chủ. Bọn chúng không từ một thủ đoạn nào để bóc lột nông dân. Trước tình cảnh đó, người dân Bình Hoà đã nung nấu ý chí căm hờn, sẵn sàng đấu tranh chống lại bọn cường hào ác bá, bọn tay sai bán nước và bọn thực dân cướp nước. Cuộc sống nhân dân Nam bộ nói chung và tại Bình Hoà Bắc nói riêng bị đè nén vì vậy họ sẵn sàng đấu tranh chống lại bọn thực dân cướp nước và bọn tay sai bán nước. Cuộc đấu tranh đó phải có một lực lượng tiến bộ, cùng giai cấp lãnh đạo.Trên những điều kiện và hoàn cảnh đó, nhu cầu tất yếu của lịch sử là phải có một chính đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống Pháp, giành độc lập dân tộc.
Ngày 03-02-1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, mở ra bước ngoặt vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Từ đây, Đảng cộng sản lãnh đạo phong trào cách mạng, hướng dẫn quần chúng đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho nhân dân. Ngay sau đó, các chi bộ Đảng đã lần lượt xuất hiện tại tỉnh Chợ Lớn và tỉnh Tân An. Tại địa bàn huyện Đức Huệ ngày nay, đồng chí Phạm Văn Khương[4], Tỉnh ủy viên tỉnh Chợ Lớn, được cử về tổng Cửu Cư Thượng xây dựng cơ sở Đảng ở các làng Bình Hòa, Bình Thành và Mỹ Thạnh Đông. Những đảng viên đầu tiên của làng Bình Hoà là đồng chí Lê Văn Đèo, Huỳnh Văn Dơn, Bùi Văn Bương. Do lực lượng còn quá mỏng nên làng Bình Hoà chưa thành lập được chi bộ, các đảng viên hoạt động theo sự chỉ đạo trực tiếp của cấp trên. Từ năm 1931, do sự đàn áp, khủng bố của thực dân Pháp và bọn tay sai, các cơ sở Đảng ở Bình Hoà tạm ngưng hoạt động, các đảng viên rút vào hoạt động bí mật, phong trào cách mạng ở địa phương tạm thời lắng dịu.
Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Quốc hội và được quyền đứng ra thành lập chính phủ mới. Do đó, những chủ trương, chính sách của nhà nước Pháp đối với các thuộc địa có sự thay đổi. Ở Đông Dương, thực dân Pháp đã giảm nhẹ mức độ khủng bố, đàn áp phong trào cách mạng. Nhân cơ hội này, Đảng ta phát động một phong trào đấu tranh công khai, rộng rãi chống phát xít, đòi dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình, lấy tên là Đông Dương đại hội. Ở địa bàn Đức Huệ ngày nay, phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ do ông Lê Văn Bân lãnh đạo. Tại làng Bình Hoà, phong trào đấu tranh do các đảng viên như Huỳnh Văn Dơn, Bùi Văn Bương (còn gọi là Hương Bộ Bương) của Hội tề do thực dân Pháp dựng lên (Bùi Văn Bương là đảng viên Đảng cộng sản) lãnh đạo. Phong trào đấu tranh được sự hưởng ứng của hàng trăm đồng bào, chủ yếu đòi tăng giá mía, tăng tiền công, đòi cơm ăn áo mặc, đòi quyền sống và không được đàn áp các cuộc biểu tình của quần chúng.
Từ năm 1938, thực dân Pháp giải tán hết các Ủy ban hành động trong phong trào Đông Dương đại hội và cấm các cuộc hội họp từ 20 người trở lên. Một số đồng chí là đảng viên bị bắt, phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ ở Bình Hoà rút vào hoạt động bí mật.
Để chuẩn bị cho cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ-1940, Quận ủy Thủ Thừa phân công các đồng chí Quận ủy viên về phụ trách các làng trong quận, củng cố chi bộ Đảng, xây dựng lực lượng nghĩa quân chuẩn bị hành động bằng bạo lực giành lấy chính quyền về tay quần chúng nhân dân. Tại các làng Bình Hoà, Mỹ Thạnh, Mỹ Quý do đồng chí Lê Văn Đèo -Quận ủy viên quận Thủ Thừa phụ trách.
Lực lượng khởi nghĩa ở tổng Cửu Cư Thượng cũng được thành lập gồm 03 đại đội được trang bị vũ khí như tầm vông vạt nhọn, dao găm, giáo mác...Tại làng Bình Hoà, lãnh đạo khởi nghĩa do 03 anh em Huỳnh Văn Tiên, Huỳnh Văn Dơn, Huỳnh Văn Do lãnh đạo trong đó đồng chí Huỳnh Văn Dơn-đảng viên cộng sản chỉ đạo trực tiếp. Suốt đêm 22 rạng 23-11-1940, tại làng Bình Hoà, lực lượng khởi nghĩa đã nổi dậy chiếm nhà việc, dẹp hết bọn tề làng, bắt tên phó Hương Hào trị tội. Một bộ phận nghĩa quân tiến vào đốt kho thóc và khu nhà ở của Hội đồng Sầm, nhưng tên địa chủ này may mắn chạy thoát. Sau đó, lực lượng nghĩa quân tìm và tiêu diệt tên tay sai ác ôn Cai Cô-một tên có nhiều nợ máu với đảng viên và nhân dân Bình Hoà. Một số tên tay sai khác như Hương cả Tường, Hương sư Khoẻ, Hương quản Long và các Trưởng ấp bị ta bắt, giáo dục, cảnh cáo không được làm tay sai cho địch, nếu không sẽ bị trừng trị.
Đến ngày 23-11-1940, khi Tỉnh ủy Tân An thông báo cho các địa phương cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn đã thất bại, đại bộ phận nghĩa quân làng Bình Hoà trở về vị trí hợp pháp, còn các đồng chí lãnh đạo chủ chốt thì tạm lánh lên vùng rừng tràm phía bắc tỉnh Tân An (Tràm Ba Làng, giồng Ông Bạn, giồng Ông Tưởng, Mớp Xanh...) để tránh sự khủng bố điên cuồng của thực dân Pháp và bọn tay sai.
Sau thất bại của cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ-1940, thực dân Pháp đã huy động lực lượng để khủng bố những người tham gia khởi nghĩa.Tại Bình Hoà, chúng đốt nhà những gia đình có người thân tham gia khởi nghĩa. Bọn chúng bắt ông Huỳnh Văn Do, Mai Văn Liễu đày ra Côn Đảo. Các cơ sở Đảng như ông Quế, ông Thâu, ông Đức...bị địch bắt, tra tấn dã man và tù đày. Những người lãnh đạo khởi nghĩa như Huỳnh Văn Dơn, Huỳnh Văn Tiên phải trốn đi nơi khác. Sau đó, do chỉ điểm, địch bắt được đồng chí Huỳnh Văn Dơn, sau khi tra tấn dã man hòng tìm ra cơ sở Đảng ở Bình Hoà nhưng không thu được kết qủa, bọn địch thủ tiêu đồng chí Dơn. Sau phong trào Nam Kỳ khởi nghĩa, làng Bình Hoà là một trong những địa phương bị thực dân Pháp đàn áp dã man nhất của tổng Cửu Cư Thượng. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ-1940, phong trào cách mạng ở Nam bộ nói chung và tại làng Bình Hoà nói riêng gặp tổn thất, phải rút vào hoạt động bí mật, củng cố và xây dựng cơ sở cách mạng, chờ thời cơ tiếp tục khởi nghĩa.
2.Khôi phục phong trào cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân trong cách mạng Tháng Tám -1945:
Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ-1940, thực dân Pháp đàn áp dã man những người tham gia khởi nghĩa. Mặc dù bị đàn áp khốc liệt nhưng những người cộng sản ở làng Bình Hoà vẫn tiếp tục lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống thực dân Pháp. Đảng viên làng Bình Hoà còn 2 đồng chí: Bùi Văn Bương, Tư Đào.
Để tiếp tục khởi nghĩa sau thất bại khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, nghĩa quân của tỉnh Tân An và tỉnh Chợ Lớn rút về các làng Bình Hoà, Bình Thành, Thạnh Lợi để lập căn cứ Mớp Xanh-Bo Bo. Lợi dụng địa hình nơi đây có kinh, rạch chằng chịt, phần lớn là Trấp, Bưng, nhiều lau sậy, tràm và cỏ mọc hoang dại để làm nơi trú đóng quân. Ban chỉ huy căn cứ gồm các đồng chí: Lưu Dự Châu, Lê Minh Quang, Lê Văn Của.
Để thuận tiện trong công tác chỉ đạo, căn cứ có các tiểu ban như: Tiểu ban Quân sự và tác chiến do đồng chí Lê Minh Quang, Lê Văn Tưởng phụ trách; tiểu ban tạo tác (sản xuất vũ khí tự tạo) do đồng chí Trần Văn Trừ, Huỳnh Văn Xả phụ trách; tiểu ban quân nhu do đồng chí Phèn, Giống phụ trách; tiểu ban tuyên truyền báo chí do đồng chí Nguyễn Văn Hưng phụ trách; tiểu ban Y tế do đồng chí Hoài phụ trách...Hoạt động nghĩa quân trong căn cứ diễn ra sôi nổi: luyện tập quân sự, sản xuất vũ khí, tổ chức in ấn báo (tờ báo Nhà Quê ra đời tại đây), in truyền đơn...Ngay cả bộ phận toà án cũng được thành lập do đồng chí Đấu phụ trách để duy trì kỷ luật trong hàng ngũ nghĩa quân.
Ngày 29-12-1940, địch đưa quân càn quét vào căn cứ. Lực lượng nghĩa quân bố trí phục kích địch tại kinh Bo Bo. Khi địch lọt vào ổ phục kích, quân ta nổ súng làm cho tên Hương chánh Phạm Văn Liêng, Hương bộ Nguyễn Văn Khuyên, cai tổng Nguyễn Văn Hiệu, con trai tổng Hiệu bị trúng đạn. Các tên lái thuyền Nguyễn Văn Ngữ, Nguyễn Văn Tân và Nguyễn Văn Luỹ đều bị trúng đạn của nghĩa quân, riêng tên bếp Tạ Văn Mao bị trúng đạn rơi xuống sông, sau 2 ngày tìm được xác tên bếp Mao...Trận phục kích trên làm cho địch bị tổn thất nặng nề. Sau trận càn của địch, nghĩa quân thu được 2 khẩu súng và một số đạn.
Để đối phó với lực lượng khởi nghĩa, cuối năm 1940, Pháp cho lập quận đặc biệt Bình Hoà, cử tri phủ Nguyễn Văn Hoài -Quận trưởng Châu Thành về làm Quận trưởng quận Bình Hoà (Quận Bình Hoà chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, do địch lập ra để đàn áp phong trào khởi nghĩa tại căn cứ Mốp Xanh-Bo Bo. Đến cuối năm 1941, tên gọi hành chánh quận Bình Hoà không còn). Trong giai đoạn này, tại Bình Hoà và một số làng như Bình Thành, Mỹ Thạnh Đông...nổi bật phong trào đấu tranh của quần chúng đòi tăng giá mía, hủy bỏ thuế thân, đòi dân sinh dân chủ...Đầu năm 1941, hàng trăm nông dân Bình Hoà và các làng lân cận đã tập hợp thành đội ngũ, kéo đến hãng đường Hiệp Hòa đấu tranh trực diện với kẻ thù, đòi chúng phải tăng giá mía. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng, nông dân trồng mía ven sông Vàm Cỏ Đông từ Mỹ Quý đến Bình Hoà,Tân Phú, Hoà Khánh (Đức Hoà)...đồng loạt không đốn mía bán cho nhà máy đường Hiệp Hoà, làm cho nhà máy ngưng hoạt động, gây thiệt hại đáng kể cho bọn chủ Tây. Trước tình hình đó, bọn chủ nhà máy đường Hiệp Hoà lo sợ không có nguyên liệu sản xuất đành chấp nhận yêu sách của nông dân. Tuy nhiên, chúng rất tức giận, ra lệnh cho bọn tề làng theo dõi, tìm ra những người lãnh đạo các cuộc biểu tình bởi vì chúng biết rằng những cuộc đấu tranh trên có sự lãnh đạo của những người cộng sản.
Trong qua trình đấu tranh, ông Bùi Văn Bương (Bộ Bương) là người dẫn đầu những người trồng mía ấp An Hoà, làng Bình Hoà, đấu tranh rất quyết liệt nên bọn chúng nghi ngờ là “Cộng sản” nên rắp tâm diệt trừ. Tên Hương quản Thạch (ở gần nhà ông Bộ Bương)luôn theo dõi Bộ Bương, thừa thời cơ ông không cảnh giác, đã lén bỏ cái“Còng”và "Truyền đơn Cộng sản" vào tủ nhà ông, sau đó báo cho lính Pháp đến khám xét. Chúng xét thấy có cái “Còng” và "Truyền đơn Cộng sản" nên kết tội ông làm“Cộng sản” chống lại nhà nước Pháp. Bọn chúng bắt ông Bùi Văn Bương đưa lên Hiệp Hoà, trói hai tay ông, cột sau xe ngựa lôi từ Hiệp Hoà xuống Dinh quận Đức Hoà. Chính tên Quận trưởng bắn chết ông Bùi Văn Bương[5] tại Ngã tư Đức Hoà, sau đó chôn xác ông tại đây. Gương hy sinh anh dũng của đồng chí Bùi Văn Bương là sự mất mát không nhỏ đối với phong trào cách mạng của địa phương sau cuộc Nam Kỳ khởi nghĩa-1940 bởi vì giai đoạn này, số đảng viên của làng Bình Hoà chỉ còn một vài đồng chí. Mặc dù dưới danh nghĩa Ban Hội tề của địch nhưng đồng chí Bương là đảng viên cộng sản, đấu tranh vì quyền lợi của nhân dân, đã hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Cũng trong giai đoạn này, ở ấp Hoà Tây, một số người bị chúng cho là cộng sản cũng bị bắn chết, đó là ông Nguyễn Văn Lược(Hai Lược) và một số người khác...Gia đình của những người bị chúng cho là “Cộng sản” bị bọn tề làng theo dõi chặt chẻ theo lệnh của quan thầy Pháp, bọn chúng canh gác gắt gao, thân nhân của những người chúng nghi ngờ là "Cộng sản" có thể bị bắt và bỏ tù bất cứ lúc nào.
Trước sự hy sinh của đồng chí Bùi Văn Bương, nghĩa quân vô cùng căm tức, quyết tâm trừng trị tên Hương quản Thạch để trả thù và thời cơ đã đến. Ngày 10-2-1941, tên Hương quản Trương Văn Thạch và em rễ là Nguyễn Văn Nhì lấy cớ vào Giồng Đế để mua lợn về làm lễ cho làng nhưng thực chất là đi dò la tin tức để báo cho địch. Khi chúng đến ranh giới Bình Hoà và Mỹ Thạnh Đông thì bị nghĩa quân bắt, đưa đến Giồng Nhỏ. Tên Nhì được tha nhưng tên Hương quản Thạch bị xử tội chết vì y là tên tay sai gây nhiều tội ác, chỉ điểm giết hại các đồng chí đảng viên ở Bình Hoà và những địa phương lân cận.
Đêm 16 rạng 17-2-1941, vào lúc 21 giờ, nghĩa quân khoảng 30 người đột nhập khu nhà Hội đồng Sầm, phá kho lấy 20 bao gạo, sau đó nỗ súng bắn chỉ thiên rồi rút quân an toàn.
Để đối phó với lực lượng nghĩa quân, ngày 19-2-1941, Quận trưởng Bình Hoà là Nguyễn Văn Hoài xin ý kiến của chủ tỉnh Tân An, đưa lính đến đóng tại đồn điền của Hội đồng Sầm, biến kho lúa thành đồn canh để đưa quân càn quét vào căn cứ Mốp Xanh-Bo Bo. Sau khi lập đồn, địch ngày đêm đưa quân lùng sục, tìm kiếm nghĩa quân. Mỗi lần càn quét, chúng huy động thêm lực lượng dân làng từ vài chục đến cả trăm người xục xạo khắp nơi. Bọn chúng đốt nhà dân, đốt rừng, đốt tất cả những nơi nào chúng nghi ngờ có nghĩa quân ẩn nấp.
Ngày 10-3-1941, Quận trưởng Nguyễn Văn Hoài mang theo 05 lính đi ngựa lùng sục vào Giồng Á Rặt, khi trở về thấy một mảnh giấy cắm giửa rừng Tràm, nội dung sau: " Vài lời với ông tri phủ. Chúng tôi trông thấy ông qua đây. Chúng tôi thấy ông trong tầm súng, nhưng chúng tôi không bắn ông, vì điều đó trái với chủ trương của chúng tôi đề ra, chỉ trừng phạt những viên chức ác. Tuy nhiên ông hãy cẩn thận và đừng có ác"... Rõ ràng, công tác tuyên truyền, giáo dục đánh vào tâm lý của địch, nhất là tên đứng đầu vùng Bình Hoà có tác dụng làm cho chúng hoang mang, hạn chế đưa quân càn quét vào căn cứ. Do thám báo, chỉ điểm, chúng biết được lực lượng nghĩa quân khá mỏng, nên tìm mọi thủ đoạn để dập tắt cuộc khởi nghĩa mà chúng cho rằng đây là nhóm quân phiến loạn chống lại nhà nước Pháp.
Đêm 11-3-1941, địch đưa quân càn quét, bao vây Giồng Á Rặt, làm một số nghĩa quân hy sinh.
Ngày 12-3-1941, địch đưa quân vào khu vực kinh Trà Cú và kinh Bo Bo, lực lượng nghĩa quân và địch bắn nhau dữ dội, sau đó nghĩa quân rút lui. Trong trận này, đồng chí Nguyễn Văn Đang -chỉ huy trưởng đội quân chuyên hoạt động vùng sông rạch trúng đạn hy sinh.
Ngày 14-3-1941, địch đưa quân càn quét vào Giồng Đế, hai bên bắn nhau và đồng chí Võ Văn Lừa trúng đạn hy sinh. Như vậy, không đầy 03 ngày, lực lượng nghĩa quân đã hy sinh 2 vị chỉ huy chủ chốt và dũng cảm.
Ngày 18-3-1941, lính đồn Bình Hoà và đồn Thạnh Lợi đưa quân càn vào vùng Đìa Bàu Mốp thuộc làng Thạnh Lợi, giáp ranh làng Bình Hoà. Nghĩa quân nỗ súng chống lại nhưng do lực lượng mỏng đành phải rút lui. Bọn địch vào tận công sự chiến đấu của nghĩa quân, thu được 2 súng và nhiều tài liệu, chúng cho rằng đây là trung tâm chỉ huy của nghĩa quân căn cứ Mốp Xanh-Bo Bo. Sau cuộc càn quét vào trung tâm căn cứ ở làng Thạnh Lợi, lực lượng nghĩa quân dần dần phân tán. Mặc dù bị địch càn quét liên tục nhưng đến cuối năm 1941, căn cứ Mốp Xanh-Bo Bo mới dần dần tan rã...
Như vậy, làng Bình Hoà là một trong những địa điểm đóng quân của nghĩa quân 02 tỉnh Tân An và Chợ Lớn sau khởi nghĩa Nam Kỳ. Bên cạnh đó, địch cũng sử dụng làng Bình Hoà (Khu Hội đồng Sầm) để đóng đồn, làm bàn đạp tấn công lực lượng khởi nghĩa tại căn cứ Mốp Xanh-Bo Bo sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ-1940. Tuy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng căn cứ mốp Xanh -Bo Bo mãi mãi là niềm tự hào của các làng Thạnh Lợi, Bình Hoà, Bình Thành nói riêng và của 2 tỉnh Tân An và Chợ Lớn nói chung sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ -1940.
Dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, đời sống nhân dân ta gặp muôn vàn khó khăn. Nhân dân làng Bình Hoà cũng chịu chung số phận, thậm chí ở một số người không có quần áo che thân. Họ mặc quần áo may bằng bố (dùng để đựng lúa), thậm chí có người đan đệm bàng để mặc thay cho quần áo! Bên cạnh đó, dịch bệnh hoành hành nhiều nơi trong đó có làng Bình Hoà. Bệnh dịch tả, bệnh trái đậu, bệnh sốt rét...không có thuốc trị làm cho những người dân bị bệnh đều khó tránh khỏi cái chết...Cuộc sống cơ cực và bị áp bức đến tận xương tủy đã làm cho mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam trổi dậy tinh thần dân tộc mạnh mẽ, truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm bùng phát dữ dội hơn bao giờ hết, chỉ còn chờ thời cơ là phá tan xiềng xích nô lệ, giải phóng dân tộc.
Ngày 09-03-1945, Nhật đảo chánh Pháp, toàn cõi Đông Dương về tay phát xít Nhật. Tranh thủ sự đồng ý của Nhật về việc tập hợp lực lượng thanh niên, Xứ ủy Nam Kỳ chủ trương thành lập “Thanh niên Tiền phong” do Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (là đảng viên cộng sản) làm thủ lĩnh tổ chức ở Nam Kỳ. Với việc công khai hoạt động của tổ chức “Thanh niên tiền phong” các chiến sĩ cách mạng lồng vào đây nội dung khởi nghĩa vũ trang, tổ chức, tập hợp lực lượng và gấp rút xây dựng tự vệ vũ trang, chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay quần chúng nhân dân.
Tháng 03-1945, quán triệt chủ trương của Xứ ủy Nam Kỳ về việc tập hợp lực lượng và gấp rút xây dựng tự vệ vũ trang, Tỉnh ủy Tân An đôn đốc các Quận ủy, Tổng ủy xây dựng lại chi bộ Đảng ở các làng, thành lập tổ chức Thanh niên Tiền phong, thanh niên Cứu quốc,các đoàn thể Cứu quốc.
Chi bộ làng Bình Hoà lần đầu tiên được chính thức thành lập gồm các đồng chí:
-Phạm Văn Trộn-Bí thư chi bộ
-Võ Hoàng Minh (tự Ba Linh)
-Võ Hoàng Thượng
-Mai Thành Long
-Hồ Chí Hoà
-Bùi Hoàng Vũ
-Huỳnh Văn Dậu
-Đào Văn Vĩnh
Trụ sở của chi bộ Đảng đóng tại ấp An Hoà. Tuy nhiên, do tình hình thời chiến, địa điểm tổ chức các cuộc họp của chi bộ có thể ở nhiều nơi khác nhau để tránh sự dò xét của địch, đảm bảo an toàn cho chi bộ và đảng viên. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ làng Bình Hoà, đầu tháng 07- 1945, tổ chức “Thanh niên Tiền phong” làng Bình Hoà được thành lập gồm:
-Thầy giáo Hai Nhỏ-Thủ lĩnh, phụ trách chung
-Huỳnh Văn Dưa-Phụ trách Thanh niên cứu quốc
-Huỳnh Thị Cử -Phụ trách Phụ nữ cứu quốc
Tổ chức “Thanh niên Tiền phong” ở Bình Hoà đã tập hợp hàng trăm thanh niên tham gia, tổ chức thành các trung đội trang bị vũ khí thô sơ như tầm vông vạt nhọn, dao găm, mã tấu…Lực lượng thanh niên Tiền phong ban ngày vẫn tham gia sản xuất, đến chiều tập hợp tại Hội quán (Kinh Xáng -Trà Cú), nghe diễn thuyết về chủ trương, đường lối của Quận ủy Thủ Thừa trong đó vấn đề khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay quần chúng nhân dân đã được đề cập khi thời cơ xuất hiện.Vào ban đêm, một số thanh niên tổ chức canh gác thường xuyên những vị trí trọng yếu trong làng. Trong quá trình canh gác, mọi chuyện đều được báo động bằng mõ.Thỉnh thoảng, Thanh niên Tiền phong tổ chức văn nghệ, hát những bài hát khơi dậy lòng yêu nước, động viên tinh thần chiến đấu của nhân dân.
Ngày 15-08-1945, Nhật đầu hàng đồng minh, thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền về tay quần chúng nhân dân đang đến rất gần.Ngày 21-08-1945, Tỉnh ủy Tân An khởi nghĩa thành công. Tại làng Bình Hoà, lực lượng Thanh niên Tiền phong do thầy giáo Hai Nhỏ làm thủ lĩnh cùng quần chúng nổi dậy, đốt phá kho thóc và nhà cửa của Hội đồng Sầm và những tên địa chủ khác. Sau đó bắt bọn tề làng, giải tán bộ máy chính quyền địch trên địa bàn Bình Hoà, tổ chức mít tinh ở Kinh Xáng (Trà Cú), thành lập chính quyền cách mạng lâm thời tại ấp An Hoà với thành phần sau:
-Trương Ngọc Bích-Chủ tịch (khoảng 1 năm). Sau đó là Võ Hoàng Minh (tự Ba Linh) -Chủ tịch
-Võ Hoàng Thượng - Phó chủ tịch
-Bùi Hoàng Vũ-Ủy viên chính trị
-Huỳnh Văn Dậu-Ủy viên quân sự
-Đào Văn Vĩnh-Ủy viên công an
-Hồ Chí Hoà -Ủy viên Tuyên huấn kiêm Trưởng Ban thông tin
-Bùi Văn Xã-Uỷ viên tài chính
-Nguyễn Văn Thẻ-Ủy viên xã hội
Qua 15 năm đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng (1930-1945) ngày mong đợi nhất của nhân dân Bình Hoà đã đến, quê hương được giải phóng, đất nước giành được độc lập, tự do.Chặng đường 15 năm ấy, biết bao cán bộ, đảng viên cùng nhân dân Bình Hoà phải chịu nhiều gian khổ, hy sinh và có lúc tưởng chừng phong trào cách mạng khó gượng dậy được. Tuy nhiên, với truyền thống bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, các cán bộ, đảng viên và nhân dân Bình Hoà đã không ngừng đấu tranh chống lại kẻ thù mặc dù chịu sự đàn áp, khủng bố gắt gao của địch.
Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công trong cả nước, ngày 02 -09-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc“Tuyên Ngôn Độc Lập” khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước quốc dân đồng bào tại Quảng trường Ba Đình -Hà Nội. Hòa chung niềm vui cùng đồng bào cả nước, nhân dân Bình Hoà từ đây đã làm chủ quê hương mình. Tuy nhiên, niềm vui độc lập chưa trọn vẹn, thực dân Pháp không từ bỏ âm mưu xâm lược lâu dài nước ta.Cuối tháng 09 năm 1945, được sự giúp đỡ của quân Anh ở miền Nam và quân Tưởng ở miền Bắc, Pháp nổ súng tái chiếm Nam bộ, đến cuối tháng 10-1945, tỉnh Tân An, trong đó có làng Bình Hoà bị giầy xéo bởi quân xâm lược.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân Nam Bộ đứng lên đấu tranh chống Pháp với hoàn cảnh gặp muôn vàn khó khăn, gian khổ. Vừa thành lập chính quyền cách mạng không bao lâu với bao khó khăn chồng chất, Chi bộ, chính quyền cách mạng và nhân dân Bình Hoà phải đương đầu với cuộc kháng chiến trường kỳ, nhân dân Bình Hoà quyết tâm kháng chiến đến cùng để bảo vệ nền độc lập mới giành được.
II.GIAI ĐOẠN 1945-1954:
Ngày 23-09-1945, thực dân Pháp nổ súng tái xâm lược nước ta tại Sài Gòn.Tháng 10-1945, Pháp chiếm tỉnh lỵ Tân An.Giai đoạn này, Đảng ta rút vào hoạt động bí mật, trên danh nghĩa, tổ chức Việt Minh là Mặt trận đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, lãnh đạo mọi mặt của cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp xâm lược.
Ngày 25-11-1945,Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, xác định đường lối và nhiệm vụ kháng chiến, nêu rõ phương châm kháng chiến là đánh du kích, các lực lượng vũ trang phải luôn bám dân, bám đất, lập căn cứ kháng chiến, dựa vào dân mà đánh giặc. Đến ngày 19-12-1946, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh được toàn dân hưởng ứng, đứng lên đánh giặc ngoại xâm giành lại độc lập dân tộc.Quán triệt chỉ thị của Trung ương và lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Tân An, Huyện ủy Thủ Thừa, chi bộ, chính quyền cách mạng làng Bình Hoà đã lãnh đạo nhân dân chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp tái xâm lược.
Để phù hợp với tình hình của cuộc kháng chiến, Xứ ủy Nam Bộ chủ trương thay đổi tên gọi của Ủy ban Hành chánh từ cấp Xứ cho đến cơ sở. Ủy ban Hành chánh được thay bằng Ủy ban Kháng chiến-Hành chánh.Tại làng Bình Hoà, tiếp nhận chỉ đạo của cấp trên, chi bộ Đảng cùng chính quyền kháng chiến tích cực chỉ đạo và hướng dẫn lực lượng vũ trang và nhân dân tiến hành mọi mặt để đối phó với âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù. Trên cơ sở đó, Đội Tự vệ chiến đấu (du kích) được bổ sung lực lượng thành một tiểu đội, thường xuyên luyện tập, tuần tra,canh gác...Thanh niên từ 18 đến 45 tuổi tham gia lực lượng Dân quân, làm nhiệm vụ đào kinh,đắp cản, đào hầm bí mật, bổ sung vào lực lượng du kích và bộ đội chủ lực. Các đoàn thể vận động nhân dân đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến.
Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, Xứ ủy Nam Bộ chỉ đạo thành lập các căn cứ kháng chiến. Làng Bình Hoà là một phần của căn cứ Đồng Tháp Mười-một trong 03 căn cứ quan trọng ở miền Nam thời kỳ đầu 09 năm chống Pháp.Trong số 25 chi đội ở miền Nam thì Bình Hoà là nơi đóng quân của 02 chi đội đó là Chi đội 12 và Chi đội 15, đóng quân tại ấp An Hoà và ấp Chánh (còn gọi ấp Ba Thắt). Sau đó,Trung đoàn 120 (tiền thân là Chi đội 12) của tỉnh Tân An và Trung đoàn 308 (tiền thân là Chi đội 15) của tỉnh Chợ Lớn đã từng đóng quân ở làng Bình Hoà thời kỳ đầu 09 năm chống Pháp. Bên cạnh đó, vùng đất Bình Hoà còn là nơi đóng quân của Quốc gia Tự vệ Cuộc (sau gọi là Sở Công An Nam Bộ) đóng quân tại khu vực UBND xã Bình Hoà Bắc hiện nay.Tiểu đoàn Quyết tử 950 của Sài Gòn-Gia Định đóng quân ở khu Hội đồng Sầm và ấp Hoà Tây. Ngoài ra, một số xã của Đức Hoà cũng về đứng chân nơi đây. Có thể nói rằng, ngay từ buổi đầu chống Pháp tái xâm lược, vùng đất Bình Hoà với những đặc điểm tự nhiên thuận lợi cũng như truyền thống yêu nuớc của người dân nơi đây đã được chọn là nơi đóng quân của bộ đội, các cơ quan từ cấp Xứ, cấp tỉnh, cấp huyện và các làng (xã) lân cận.
Ngày 06-01-1946, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà diễn ra trên cả nước. Tại xã Bình Hoà, dưới sự hướng dẫn của chính quyền cách mạng, nhân dân tự nguyện tham gia bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội (đơn vị tỉnh Tân An) tại 02 điểm thuộc ấp Hoà Tây. Đây là nhiệm vụ chính trị rất quan trọng, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Bình Hoà được thể hiện rõ nét.
Năm 1947, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ quyết định thay đổi tên gọi hành chánh(quận đổi thành huyện, làng đổi thành xã) cũng như chia tách địa bàn một số xã ở Nam Bộ để phù hợp với tình hình kháng chiến và thuận lợi trong việc chỉ đạo. Trên cơ sở đó, Quân khu Đông Thành (phần lớn địa bàn huyện Đức Huệ ngày nay) được thành lập. Lúc bấy giờ, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 đang đóng ở Giồng Dinh,Giồng Lớn (xã Mỹ Thạnh Tây hiện nay) và Giồng Ông Bạn, Mốp Xanh (xã Bình Thành hiện nay)...nên địch tập trung đánh phá rất ác liệt. Sau khi thành lập Quân khu Đông Thành thì các làng cũng được chia tách từ 4 làng (Bình Hoà, Mỹ Quý, Bình Thành, Mỹ Thạnh Đông) thành 8 xã (Bình Hoà Bắc, Bình Hoà Nam, Mỹ Quý Đông, Mỹ Quý Tây, Bình Thành, Mỹ Thạnh Đông, Mỹ Thạnh Tây, Mỹ Thạnh Bắc). Riêng làng Bình Hoà được tách ra làm 02 xã đó là Bình Hoà Bắc và Bình Hoà Nam (tên gọi và địa giới hành chính này tồn tại đến nay).
Sau khi chia tách xã, Ủy ban Kháng chiến -Hành chánh xã Bình Hoà Bắc gồm các đồng chí:
-Võ Hoàng Minh (Ba Linh)-Chủ tịch UBKC-HC
-Võ Hoàng Thượng- Phó chủ tịch UBKH-HC
-Bùi Bằng Cờ -Tổng thư ký
-Mai Thành Long- Chủ nhiệm Thôn bộ Việt Minh
-Phạm Văn Danh- Ủy viên Thôn bộ Việt Minh
-Bùi Văn Vinh- Ủy viên quân sự
-Đào Văn Vĩnh-Ủy viên công an
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng và chính quyền cách mạng, vùng giải phóng được mở rộng. Lực lượng dân quân đào kinh kháng chiến từ xã Mỹ Thạnh Đông dọc theo sông Vàm Cỏ Đông, từ kinh Rạch Bọng đến rạch Ba Thắt (ấp Chánh) để làm tuyến giao thông cho bộ đội, tải thương, đồng thời là tuyến ngăn giặc Pháp càn quét vào Bình Hoà Bắc bằng xe cơ giới. Để làm đường giao thông đường bộ, lực lượng dân quân đã đào kinh, đắp bờ kháng chiến từ Ba Thắt đến Giồng Đế. Ngoài ra, chính quyền xã còn vận động hàng ngàn ngày công do nhân dân đóng góp để đắp bờ kháng chiến qua vùng bưng (từ Mỏ Heo-Xóm Mới đến Giồng Lớn thuộc ấp Hoà Tây) để làm đường đi bộ cho nhân dân và bộ đội hành quân được dễ dàng. Để giữ được nước bưng và tạo điều kiện giao thông nội đồng, nhân dân ấp Chánh, ấp An Hoà còn đắp cản ở Ba Rai và rạch Bà Mua, góp phần quan trọng về giao thông trong vùng căn cứ kháng chiến. Đặc biệt, quân dân Bình Hoà Bắc đã đóng góp sức người, sức của cho công trình đắp cản kinh Xáng (Trà Cú) dài 100 m. Công trình này phải làm ban đêm vì ban ngày bị máy bay địch ném bom. Sau gần 2 tháng ròng rã, công trình hoàn thành đã có tác dụng rất lớn trong việc ngăn chặn tàu chiến Pháp càn quét vào khu Hội đồng Sầm và xã Bình Thành. Mặc khác, việc đắp cản kinh Xáng còn giữ được nước để bộ đội di chuyển bằng đường thủy thông suốt từ đây đến trung tâm căn cứ Đồng Tháp Mười được an toàn, kể cả mùa khô.
Trong nhiều vấn đề phục vụ cho kháng chiến được đặt ra, việc nâng cao trình độ hiểu biết của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân là hết sức cần thiết. Chính vì thế, Sở Giáo dục Nam bộ và Viện Văn hóa kháng chiến được thành lập (tháng 08-1947), nhằm xây dựng hệ thống giáo dục tận cơ sở, làm nòng cốt trên mặt trận văn hóa -giáo dục trong kháng chiến.
Phong trào Bình dân học vụ ra đời ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, không ngừng phát triển cùng với sự mở rộng và củng cố ở những vùng căn cứ, được sự yểm trợ của du kích tương đối an toàn. Xã nào, ấp nào cũng có những lớp Bình dân học vụ được tổ chức trong nhà dân, tại các đình, miếu hoặc ngay dưới những tán cây cổ thụ. Học viên gồm đủ lứa tuổi, thành phần, ai nấy đều hăm hở đi học để biết chữ Quốc ngữ, có thể đọc những “giấy tờ” của chính quyền cách mạng. Phong trào Bình dân học vụ ngày càng đi vào nề nếp khi Sở Giáo dục Nam Bộ thành lập Phòng Bình dân học vụ vào năm 1948 do ông Nguyễn Hậu Lạc (tên thật là Nguyễn Văn Đài) phụ trách, giới trẻ lúc bấy giờ thường gọi ông với cái tên trìu mến là bác Ba Hậu Lạc.
Hoà trong phong trào Bình dân học vụ khắp chiến khu Đồng Tháp Mười, dưới sự chỉ đạo của chi bộ và Ủy ban Kháng chiến-Hành chánh xã Bình Hoà Bắc, lớp học Bình dân học vụ của xã ra đời tại miếu ông Lê Công Trình (ấp Hoà Tây và ấp An Hoà) và một số nơi khác. Bàn ghế chủ yếu bằng tre, con em đến lớp mang theo bàn, ghế để học.Thầy giáo là đồng chí Huỳnh Văn Muốn và đồng chí Năm Lai.Tại đây thường xuyên có hai lớp; lớp Năm(tương đương trình độ lớp 1 hiện nay) có khoảng 30 học viên, lớp Tư(tương tương trình độ lớp 2 hiện nay) có khoảng 20 học viên.Thời gian học không cố định, có thể học vào ban ngày, ban đêm hoặc có khi phải nghỉ nhiều ngày để tránh sự càn quét của địch. Nội dung chính là dạy học viên biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ (Tiếng Việt) để xoá nạn mù chữ lúc bấy giờ.Thỉnh thoảng, học viên còn được giáo viên giảng dạy về lịch sử nước Việt, những chiến công hiển hách của các vị anh hùng dân tộc chống ngoại xâm. Đặc biệt, Miếu Ông còn là nơi dạy học cho cán bộ, đảng viên xã Bình Hoà Bắc. Lớp học dành cho cán bộ và đảng viên của xã chỉ dạy vào ban đêm, vừa tránh sự dò xét của địch vừa để các đồng chí ban ngày chăm lo công việc của xã. Phong trào Bình dân học vụ nơi đây bắt đầu từ năm 1947, duy trì đến năm 1952, đã tạo điều kiện cho cho những người lớn tuổi biết đọc, biết viết. Hình ảnh những cụ ông, cụ bà...đêm đêm xách đèn đi học tạo nên một phong trào sôi động, toàn dân tham gia chống giặc dốt- một trong ba kẻ thù lớn của toàn dân tộc ta thời bấy giờ đó là giặc ngoại xâm, giặc đói và giặc dốt. Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám -1945, trong hoàn cảnh cả nước có đến 95% dân số mù chữ, làng Bình Hoà lúc bấy giờ những người biết đọc, biết viết khoảng chục người thì lớp học tại đây đã giúp cho đa số nhân dân trong xã cơ bản biết đọc, biết viết. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ánh sáng văn hóa, giáo dục trong kháng chiến đã lan toả khắp nơi, soi rọi đến cả những vùng xa xôi hẻo lánh. Đối với người nông dân, việc biết đọc, biết viết là sự đổi đời thực sự mà cách mạng đã mang lại cho họ.
Về phía địch, sau khi tái chiếm Nam bộ, chúng lập tức thiết lập hệ thống đồn bót để kiểm soát và lập lại trật tự.Tại Bình Hoà Bắc, Pháp đóng đồn tại đầu kinh Xáng (Trà Cú). Quân số đóng tại đây là 01 trung đội do 02 tên Pháp chỉ huy. Mục đích của chúng đóng chốt nơi đây để bảo vệ khu vực ngã ba sông, khống chế đường vận chuyển của ta từ sông Vàm Cỏ Đông đi Lộ 8 -đường lên Hậu Nghĩa (Đức Hoà). Đầu năm 1946, ta chủ động tiêu diệt đồn này để ngăn chặn địch càn quét. Lực lượng tham gia gồm 01 trung đội của Chi đội 15. Quân ta từ Hốc Thơm (thuộc xã Hoà Khánh Tây, huyện Đức Hoà ngày nay) dùng ghe lớn có mui di chuyển xuống cập bến sát đồn địch. Hai trinh sát được trang bị lựu đạn sẳn bên hông, phối hợp cùng ông Lê Văn Kéo (Tư Kéo)-là người dân địa phương giả dạng đau bụng vào xin thuốc uống. Lúc này, bọn địch đang chơi bài, khi ông Tư Kéo giả vờ ôm bụng thì 02 trinh sát ném lựu đạn làm chúng hoảng loạn,quân ta dưới ghe xung phong lên bờ tiêu diệt địch, ta thu toàn bộ vũ khí và đốt luôn đồn địch. Quân địch tại đồn bị tiêu diệt gọn, chỉ còn một tên Pháp sống sót, chạy thoát. Đồn kinh Xáng bị tiêu diệt đã làm cho quần chúng phấn khởi, về cơ bản xã Bình Hoà Bắc được giải phóng, nhân dân an tâm sản xuất, phục vụ kháng chiến.
Để trấn áp bọn gián điệp chỉ điểm giết hại cán bộ, đảng viên; chính quyền cách mạng lập toà án xét xử những tên tay sai ác ôn, có nhiều nợ máu với cán bộ, đảng viên và nhân dân để ổn định tình hình chính trị, trấn áp bọn phản động tìm cách phá hoại thành quả cách mạng. Tên Nhượng, Tư Long (lính tiểu đoàn Quyết tử 950 Sài Gòn-Gia Định làm gián điệp cho Pháp) và tên Lễ (lính đồn kinh Xáng- gián điệp) đã bị lực lượng cách mạng bắt giữ, xét xử công khai trước nhân dân và kết án tử hình tại khu Hội đồng Sầm.
Đầu năm 1947, giặc Pháp tổ chức càn quét địa bàn Đức Huệ trong đó có xã Bình Hoà Bắc. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ và chính quyền xã, du kích Bình Hoà Bắc kết hợp với Đại đội 72-Trung đoàn 308 phục kích địch tại đầu kinh Kháng Chiến, ấp An Hoà, xã Bình Hoà Bắc. Khi giặc Pháp lọt vào ổ phục kích, ta tiêu diệt trên 10 tên địch (đa số là lính Âu-Phi).Về phía ta có 3 đồng chí hy sinh: Phùng Văn Châu (xã đội phó), Nguyễn Văn Tưởng (du kích), Lê Văn Văn (du kích) và 3 thường dân bị thiệt mạng.
Ngày 19-03-1947, giặc Pháp mở cuộc càn quét lớn vào các xã Bình Hoà Bắc, Bình Hoà Nam, Bình Thành, Mỹ Quý Đông, Mỹ Quý Tây, Mỹ Thạnh Đông, Mỹ Thạnh Tây, Mỹ Thạnh Bắc, với lực lượng nhiều trung đoàn bao gồm thủy, lục, không quân. Chúng dùng máy bay đưa quân nhảy dù suốt ngày (từ 8 giờ đến 14 giờ) xuống Giồng Dinh, Giồng Lức, Giồng Cây Xoài, Giồng Ông Bạn...Dưới mặt đất, địch dùng xe lội nước từ sông Vàm Cỏ Đông đưa quân vào. Mục đích chính là tiêu diệt cơ quan đầu não của ta (Bộ Tư lệnh Quân khu 7) đang đóng ở Giồng Lức, Giồng Dinh...Tuy nhiên, do chuẩn bị đối phó từ trước, bọn địch bị ta chặn đánh ở mặt trận Giồng Dinh, bẻ gảy cuộc càn, làm quân Pháp thiệt hại đáng kể. Tức giận vì không đánh vào được Bộ chỉ huy của ta, giặc Pháp điên cuồng bắn phá, giết hại nguồn gia súc, gia cầm của nhân dân. Hàng ngàn con trâu, bò, heo, gà, vịt... bị chúng giết hại, làm cho sản xuất gián đoạn, gây hậu quả khó khăn cho người dân. Độc ác hơn, chúng còn đốt sạch nhà cửa, phá hoại hoa màu của nhân dân nhằm triệt phá về kinh tế, làm cạn kiệt nguồn lương thực phục vụ kháng chiến. Trước khi địch càn quét, người dân đã kịp di tản vào những vùng bưng, trấp an toàn mà xe quân sự của địch không thể vào được. Sau 07 ngày càn quét, địch rút theo đường sông Vàm Cỏ Đông. Sau cuộc càn, Bình Hoà Bắc là một trong những nơi chịu hậu quả nặng nề. Sau khi địch rút đi, người dân chứng kiến cảnh tượng tang hoang, nhà cửa bị đốt, nguồn lương thực bị phá, đồng ruộng, hoa màu bị thiêu hủy...Dã man hơn, bọn chúng còn hảm hiếp phụ nữ đang mang thai (vợ ông Hai Cơ) cho đến chết, sau đó thiêu huỷ xác tại rạch Bình Thành, ấp An Hoà nhằm phi tang, tội ác của kẻ thù thật rùng rợn.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ và chính quyền cách mạng, phát động nhân dân xây cất lại nhà cửa, khôi phục sản xuất, tăng cường chăn nuôi, tiếp tục đẩy mạnh cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp ngay trên mảnh đất quê hương. Nhân dân ấp An Hoà, ấp Chánh vẫn giữ vững diện tích trồng mía, vùng đất giồng thì sản xuất lúa một vụ nhằm đảm bảo lương thực phục vụ cho kháng chiến. Để giải quyết nguồn nguyên liệu, chính quyền xã chủ trương cho một số nông dân xây dựng lò đường thủ công, cung cấp cho nhân dân trong xã và bán ra bên ngoài. Thời kỳ này, riêng ấp An Hoà xây được 06 lò đường, đủ sức tiêu thụ mía trong toàn xã và một số nơi khác.
Năm 1948, Ủy ban Kháng chiến- Hành chánh Nam bộ phát hành đồng tiền Cụ Hồ nhằm tiện dụng trao đổi, mua bán trong vùng giải phóng. Bên cạnh đó, đồng tiền của Pháp thì xé làm đôi (có đóng dấu của Sở Tài chánh Nam bộ),cũng được sử dụng và có giá trị như nhau. Đối với nhân dân Bình Hoà Bắc, việc lưu thông cùng hai loại tiền lúc bấy giờ thuận lợi trong mua bán, trao đổi.
Từ năm 1947-1950, đồng chí Uông Sĩ Kính-Trưởng ban Quân lương của Tiểu đoàn Quyết tử 950 xin ý kiến Ban chỉ huy tiểu đoàn cho phép tự túc vấn đề lương thực, thực phẩm cho đơn vị và cung cấp cho đồng bào cũng như các đơn vị bạn đóng quân trên địa bàn xã Bình Hoà Bắc. Được sự đồng ý của Ban chỉ huy tiểu đoàn, Đội quân lương được thành lập với quân số cả trung đội, có 4 thuyền lớn và nhiều ghe nhỏ. Đội quân lương đến tận vùng Tân Hồng, Hồng Ngự của tỉnh Đồng Tháp và nhiều địa phương khác để thu mua lương thực, thực phẩm cung cấp cho đơn vị. Khi đơn vị không dùng hết, đã bán lại cho đồng bào với giá rẻ, đồng thời đưa những sản phẩm của địa phương như đường (các lò đường thủ công), các loại thủy sản đến những địa phương khác để bán, tạo nguồn tài chánh cho hoạt động kháng chiến của địa phương.
Đời sống tinh thần của người dân trong kháng chiến ngày càng được cải thiện.Ban Thông tin-Tuyên truyền xã tổ chức các Đội Văn nghệ, phục vụ nhân dân trong những dịp lễ, mít tinh, góp phần mang lại không khí tươi vui, phấn khởi trong quần chúng cách mạng.Thông qua các Đội Văn nghệ, chủ trường, đường lối kháng chiến của Đảng được phổ biến rộng rãi đến nhân dân. Từ năm 1952-1954, xã Bình Hoà Bắc thành lập Đội Văn nghệ, có nhiều tiết mục như ca, kịch, và đặc biệt có cải lương với những vở diễn về truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc như Bình Ngô đại cáo, Ải Chi Lăng...phục vụ chiến sĩ, đồng bào, được mọi người nhiệt liệt tán thưởng.
Về đời sống, Ủy ban Kháng chiến-Hành chánh xã cho thành lập chợ Đông Thành tại rạch Bà Mua để trao đổi, mua bán với các xã trong huyện, với vùng Đồng Tháp Mười và xuống tận Đức Hoà, Trung Quận (Bến Lức)... Nhân dân trong xã nhiều hộ buôn bán, kinh doanh ăn uống làm cho đời sống người dân ngày một nâng cao về vật chất lẫn tinh thần. Có thể nói, trong giai đoạn này, căn cứ Đồng Tháp Mười nói chung và tại Bình Hoà Bắc nói riêng, cuộc sống-kháng chiến của nhân dân được thay đổi cơ bản, đời sống vật chất và tinh thần người dân nâng cao rõ rệt, đó là những thành quả lớn lao mà cách mạng đã mang lại cho nhân dân dù cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn lắm gian nguy, hi sinh mất mát.
Đêm 23-09-1948, Tiểu đoàn Quyết tử 950 của Sài Gòn-Gia Định tổ chức Lễ kỷ niệm ngày Nam Bộ kháng chiến tại chợ Đông Thành.Buổi lễ trên bị gián điệp báo nên giặc Pháp dùng máy bay Đakota ném bom từ 19 giờ đến 23 giờ, làm cho hàng chục người chết và bị thương, trong đó có những thường dân.Mất mát đau thương của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và đồng bào đã nung nấu ý chí căm hờn, quyết tâm kháng chiến đến cùng, giành lại độc lập dân tộc. Đây là một trong những trận thảm sát dã man của thực dân Pháp ở Bình Hoà Bắc trong 9 năm kháng chiến chống Pháp.
Sự có mặt của nhiều cơ quan đơn vị cấp Xứ, cấp Khu, cấp tỉnh đã nâng vị trí chiến lược của các xã phía Bắc huyện Thủ Thừa(vùng đất Đức Huệ ngày nay) lên một tầm cao mới.Vì thế, ngày 29-09-1948, Ủy ban Kháng chiến-Hành chánh Nam Bộ đã ra Nghị định số 342/NĐ.NB tách làng Thạnh Lợi, Bình Hòa Bắc, Bình Hoà Nam, Bình Thành, Mỹ Quý Đông, Mỹ Quý Tây, Mỹ Thạnh Đông, Mỹ Thạnh Tây, Mỹ Thạnh Bắc ra khỏi huyện Thủ Thừa, tỉnh Tân An để thành lập một khu vực đặc biệt trực thuộc Khu 7, lấy tên là “khu Đông Thành”. Từ khi trở thành khu Đông Thành, các xã thuộc tổng Cửu Cư Thượng (phần lớn là huyện Đức Huệ ngày nay) gần như là một tỉnh mới. Bộ máy hành chánh của khu Đông Thành tương đương như một tỉnh. Bên cạnh việc đánh giặc, chính quyền cách mạng khu Đông Thành đã hết sức quan tâm xây dựng đời sống mới cho nhân dân. Ánh sáng của văn hóa kháng chiến do những người cộng sản mang lại đã làm thay đổi cơ bản trong tư tưởng, lối sống, nếp sinh hoạt của nhân dân. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Đông Thành nói chung và Bình Hoà Bắc nói riêng ngày càng được cải thiện dù cuộc chiến ngày càng cam go, khốc liệt.
Đầu năm 1948, giặc Pháp từ sông Vàm Cỏ Đông đưa quân đổ bộ lên Bình Hoà Bắc càn quét, ta bố trí một tổ du kích gồm 3 đồng chí theo dõi địch, dùng mõ tre báo động khi địch tiến vào khu vực đóng quân của ta. Chẳng may, tổ du kích bị địch phát hiện, chúng nổ súng làm cả 3 đồng chí hy sinh: Nguyễn Văn Phùng (tổ trưởng), Nguyễn Văn Ban, Nguyễn Văn Học(tổ viên).
Tháng 06-1948, giặc Pháp dùng tàu (lồng cu) đưa lính Âu-Phi từ Bến Lức chạy lên cập bờ sông vàm Ba Thắt, đổ quân khoảng một đại đội để càn quét. Lúc bấy giờ, lực lượng ta gồm 01 trung đội của Đại đội 72, Trung đoàn 308 đang đóng quân tại rạch Ba Thắt, một tiểu đội du kích Bình Hoà Bắc (đóng quân tại UBKH-HC xã, nay là khu vực nhà ông Ba Vững) chuẩn bị phục kích để đánh địch. Đoán được ý đồ địch hành quân sẽ càn vào khu vực đóng quân của ta, bộ đội đặt khẩu Ốc-kít bầu dầu (loại súng lớn hơn trung liên) ngay bên bờ rạch Ba Thắt. Khi địch lọt vào ổ phục kích khoảng 50 m, khẩu Ốc-kít nhả đạn làm cho địch chết và bị thương khá nhiều. Tuy nhiên, khi hết băng đạn 250 viên, khẩu Ốc-kít không bắn được nữa, quân Pháp tràn sang sông đánh xáp lá cà. Với sự yểm trợ của tiểu đội du kích, lực lượng ta rút lui an toàn. Sau đó, bọn địch gom xác đồng đội và những tên bị thương, xuống tàu rút về Bến Lức. Trận phục kích trên, địch chết và bị thương hơn 30 tên, chủ yếu là lính Lê dương. Về phía ta, có 02 đồng chí hy sinh và một số đồng chí bị thương.
Cuối năm 1948, theo chỉ thị của cấp trên, Bình Hoà Bắc được chọn làm địa điểm tổ chức Hội nghị trao trả tù binh giữa ta và Pháp. Địa điểm tổ chức tại Vàm Trà Cú (nay thuộc xã Bình Hoà Bắc).Tham dự hội nghị về phía ta có đồng chí Trần Văn Trà-Tư lệnh Khu 8, bác sĩ Trần Nam Hưng-Trưởng Quân y vụ Khu 8 và một số đồng chí khác. Lực lượng ta đến dự hội nghị trên một chiếc ca nô. Về phía địch gồm 10 tên, đi trên một chiếc tàu Hải quân của Pháp.Trước khi hội nghị diễn ra, để tạo uy thế và gây sức ép với địch, được sự chỉ đạo của cấp trên, đồng chí Hồ Chí Hoà-Ủy viên Ban Tuyên huấn kiêm Trưởng Ban thông tin xã Bình Hoà Bắc đã thông báo cho nhân dân trong xã biết sự kiện trên. Khi hội nghị diễn ra, nhân dân đến chứng kiến rất đông. Nội dung chính của hội nghị là thống nhất danh sách trao trả tù binh giữa ta và Pháp, dự kiến khoảng 2 năm sau (1950) sẽ thực hiện tại Gãy Gờ Đen (Khu 8).Tuy nhiên, đến thời gian thực hiện thì bọn Pháp trở mặt, chúng không đưa tù binh đến theo tinh thần hội nghị trên. Xã Bình Hoà Bắc được chọn làm địa điểm tổ chức họp cho vấn đề trao trả tù binh có ý nghĩa lịch sử quan trọng, cho thấy vị trí chiến lược của vùng đất này trong 9 năm chống Pháp.
Ngày 12-05-1949,Ủy ban Kháng chiến-Hành chánh Nam Bộ ra Nghị định số 156/NĐ.NB quyết định bãi bỏ Nghị định 342/NĐ.NB ngày 29-09-1948; lấy các xã Mỹ Quý Tây, Mỹ Quý Đông, Mỹ Thạnh Tây, Mỹ Thạnh Đông, Mỹ Thạnh Bắc, Bình Hoà Bắc, Bình Hoà Nam, Thạnh Lợi và Bình Thành, lấy kinh Ngang làm ranh giới thành lập huyện Đông Thành thuộc tỉnh Chợ Lớn. Đầu năm 1949, Huyện ủy Đông Thành chủ trương vận dụng chính sách ruộng rất của Đảng vào tình hình thực tế của địa phương nhằm ổn định đời sống nhân dân, trên cơ sở đó nhằm phát huy nhân lực, vật lực cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Tại Bình Hoà Bắc, phần lớn đất đai sản xuất đều rơi vào tay bọn địa chủ. Đại đa số nông dân, bần cố nông không có ruộng canh tác, chỉ làm mướn quanh năm. Ngoài ra các hộ nông dân ruộng ít, làm vất vả quanh năm vẫn thiếu thốn. Những cơ sở cách mạng của ta phần lớn đều tập trung vào thành phần này vì vậy việc chia lại ruộng đất cho nông dân vô cùng cần thiết.Chấp hành chủ trương “tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân nghèo” của Huyện ủy Đông Thành, chi bộ Đảng và Ủy ban Kháng chiến Hành chánh xã vận động điều chỉnh lại ruộng đất trên địa bàn xã. Ủy ban Kháng chiến Hành chánh xã chủ trương vận động địa chủ hiến đất là chính, riêng ruộng đất của những tên địa chủ vắng mặt thì tịch thu để chia cho nông dân và dân nghèo. Chính quyền cách mạng của xã Bình Hoà Bắc tịch thu 750 hecta (ha) của Hội đồng Sầm (luôn phần đất ở Bình Thành), hàng trăm hecta đất của những tên địa chủ ở Giồng Nhỏ, Bàu Tràm, Giồng Đế và Tràm Tơ Hồng để chia cho dân nghèo và những người không có ruộng. Đối với những hộ nông dân thành phần bần cố nông được chia 10 hecta (10 mẫu) đất bưng khai phá (trăm ngang ngàn dọc). Đối với hộ nông dân thành phần bần nông, trung nông thì được chia theo nhân khẩu gia đình (một nhân khẩu không quá 01 hecta (1 mẫu).Với chính sách phân chia ruộng đất trên, nhiều hộ không có ruộng, nhiều gia đình thiếu đất canh tác được cấp đất để sản xuất vô cùng phấn khởi, hăng say sản xuất, phục vụ kháng chiến. Chủ trương chia ruộng đất cho dân nghèo, nông dân không có ruộng rất hợp lòng dân, tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân tham gia sản xuất, ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp.
Cùng với việc tạm cấp ruộng đất cho nông dân, dân nghèo là cuộc vận động "nhường cơm xẻ áo", quyên góp trong nhân dân để lo cho bộ đội ăn no đánh giặc.Tại Bình Hoà Bắc, hàng trăm nam nữ thanh niên làm nhiệm vụ quyên góp và chuyển hàng tấn lương thực(gạo, khoai lang, khoai mì, muối...) cho bộ đội miền Đông. Có thể nói rằng, kết quả của chính sách tạm cấp ruộng cho nông dân nghèo, những người không có ruộng và cuộc vận động “nhường cơm xẻ áo" thời kỳ 9 năm chống Pháp, Bình Hoà Bắc là một trong những địa phương của huyện Đông Thành thực hiện rất tốt, niềm tin vào Đảng, vào cách mạng của nhân dân nơi đây ngày càng vững chắc. Bên cạnh đó, chi bộ Đảng và chính quyền kháng chiến,các đoàn thể còn vận động thanh niên tham gia tòng quân chống giặc. Cuộc vận động được sự hưởng ứng nồng nhiệt của lực lượng thanh niên trong xã. Các tổ chức đoàn thể (Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội..) cũng tích cực vận động nhân dân tham gia phong trào công phiếu nuôi quân, ủng hộ kháng chiến, mọi tầng lớp nhân dân với sự tự nguyện đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Cuộc kháng chiến trường kỳ ngày càng ác liệt, vùng giải phóng Bình Hoà Bắc bị địch càn quét nhiều lần, chà đi xát lại làm cho cuộc sống nhân dân vô cùng khó khăn. Nhiều cơ sở cách mạng bị địch đốt nhà đến đến 2,3 lần, một số cán bộ, đảng viên, đồng bào bị địch bắt giam, tra tấn dã man nhưng vẫn trung thành tổ chức Đảng, với cách mạng.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ và chính quyền, đa số người dân đều bám đất, bám làng, thi đua sản xuất, trao đổi công cho nhau, tạo nên phong trào sôi động sản xuất, kháng chiến ở “Xóm Công đoàn”-hay còn gọi “Khu Công đoàn” (Khu Hội đồng Sầm). Sở dĩ gọi là “Xóm Công đoàn” vì ngay từ thời Pháp thuộc, khu đất của Hội đồng Sầm được Pháp trồng cây cao su, có nhiều công nhân đến đây làm công cho chủ Pháp. Đến thời kỳ 9 năm chống Pháp, những chiến sĩ từ miền Bắc, miền Trung xuất thân là công nhân (Tiểu đoàn Quyết tử 950 Sài Gòn-Chợ Lớn) đến khu Hội đồng Sầm vừa tham gia kháng chiến, vừa phục vụ sản xuất. Vì thế, người dân điạ phương gọi khu Hội đồng Sầm là “Xóm Công đoàn” để chỉ lực lượng công nhân từng có mặt nơi đây. Phong trào sản xuất và cuộc sống người dân ở “Xóm Công đoàn” rất nổi bật, hình thức liên kết đổi công cho nhau trong sản xuất nông nghiệp cũng như giúp vốn cho nhau trong hoạt động trao đổi, mua bán, trong cuộc sống đã góp phần làm cho đời sống vật chất và tinh thần người dân nơi đây ngày càng được nâng cao. Hoạt động sản xuất, trao đổi mua bán và giúp đỡ lẫn nhau ở “Xóm Công đoàn” của nhân dân nơi đây được xem là “kiểu mẫu” lúc bấy giờ. Tên gọi “Xóm Công đoàn” ở Bình Hoà Bắc không những nổi tiếng ở khu Đông Thành mà còn được nhiều địa phương khác ở Nam Bộ biết đến và học tập.
Cũng trong giai đoạn này, chính quyền kháng chiến đưa ra chủ trương thu thuế nông nghiệp để phục vụ công cuộc kháng chiến trường kỳ. Hình thức đóng thuế cụ thể bằng lúa để cung cấp lương thực cho quân đội, đẩy mạnh công cuộc kháng chiến sớm thắng lợi. Vấn đề thu thuế nông nghiệp được nhân dân Bình Hoà Bắc nhiệt liệt ủng hộ, mọi người hăng say tăng gia sản xuất, góp phần công sức và của cải cho kháng chiến đi đến thắng lợi cuối cùng.
Tháng 10-1950, Pháp đổ quân càn quét vào Bình Hoà Bắc, chúng cho đóng bót kinh Xáng (Ngã ba Cần Gié-gần kho lương thực); lực lượng chúng gồm 01 đại đội. Mục đích nhằm ngăn chặn đường giao thông liên lạc của lực lượng cách mạng và tăng cường đánh phá vùng giải phóng của 02 xã Bình Hoà Bắc, Bình Hoà Nam. Ban ngày, từ đồn kinh Xáng, chúng đưa quân càn vào ấp Chánh, ấp An Hoà…Lực lượng du kích xã gồm 01 tiểu đội, tập trung bao vây đồn kinh Xáng, khi địch hành quân ra khỏi đồn, du kích bắn tỉa làm cho địch hoảng sợ, không dám hành quân xa mà chỉ đóng trong đồn và khu vực quanh đồn. Chính nhờ vậy mà nhân dân an tâm sản xuất, vùng giải phóng luôn được củng cố và giữ vững.
Tháng 05-1951, để thuận tiện cho việc chỉ đạo, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ ra quyết định sát nhập một số tỉnh, thành. Xã Bình Hoà Bắc giai đoạn này thuộc huyện Đức Hoà Thành, tỉnh Gia Định Ninh. Tháng 05-1952, trong cuộc càn quét của lính Pháp bằng tàu thủy từ Vàm Ba Thắt (ấp Chánh), chúng dùng súng cối 60 ly từ tàu bắn lên rạch Ba Thắt, đồng chí Võ Hoàng Minh (tự Ba Linh)-Bí thư xã và 03 người dân (trong đó có 02 phụ nữ và 01 trẻ em) trúng đạn hy sinh. Để củng cố chi bộ xã, Huyện ủy Đức Hoà Thành điều đồng chí Tân về làm Bí thư xã Bình Hoà Bắc đến Hiệp định Genève-1954.
Tháng 10-1952, lũ lớn làm cho cả vùng ven sông Vàm Cỏ Đông đều ngập lụt, chỉ còn lại Giồng Đế và khu Hội đồng Sầm là chưa bị ngập. Vì vậy, nhân dân tập trung đến khu vực này tạm trú, hầu hết lúa và hoa màu bị mất trắng(chỉ còn lúa ở ấp Hoà Tây).Cơn lũ trên làm cho đời sống nhân dân hết sức khó khăn, nạn đói đe doạ, một số gia đình phải dùng củ chuối nấu cháo ăn, đa số nhân dân phải dùng cháo thay cơm...Lợi dụng nước ngập, giặc Pháp sử dụng máy bay tăng cường bắn phá tại những vùng gò cao (đất giồng) làm cho một số đồng bào trúng đạn hy sinh.Trước tình cảnh đó, chi bộ xã cùng chính quyền và các đoàn thể phát động nhân dân đào hầm tránh bom đạn, làm giảm đáng kể những mất mát do giặc Pháp gây ra. Cuộc kháng chiến trường kỳ ngày càng có lợi cho ta, quân Pháp bị thất bại thảm hại tại Điện Biên Phủ, kéo theo hệ thống xâm lược của chúng tại Việt Nam và Đông Dương tan rã, đành ngồi vào bàn đàm phán chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Cuối tháng 2-1954, tiểu đoàn 62 BVN của địch càn quét vào địa bàn Bình Hoà Bắc, được sự hỗ trợ của bộ đội địa phương Đức Hoà Thành, lực lượng du kích xã Bình Hoà Bắc tổ chức chống càn, sau đó tiến công làm cho địch bị thiệt hại nặng.
Ngày 20 tháng 07 năm 1954, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết tại Genève (Thụy Sĩ) giữa chính phủ Pháp và chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đây là sự kiện lịch sử trọng đại đánh dấu thắng lợi vẽ vang của cuộc trường kỳ chống Pháp xâm lược của dân tộc Việt Nam. Với Hiệp định Genève, đất nước ta tạm chia cắt hai miền Nam-Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến tạm thời chở tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Chấp hành một số điều khoản trong hiệp định Genève-1954, chủ trương chiến lược của Đảng lúc bấy giờ là tập kết các đơn vị quân đội và cán bộ Dân -Chính -Đảng ở Nam bộ ra miền Bắc xây dựng hậu phương; đồng thời để lại miền Nam một lực lượng cán bộ làm nòng cốt, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chính trị đòi địch thi hành hiệp định,chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử thống nhất nước nhà dự kiến vào tháng 7-1956. Chấp hành chủ trương trên, tại Bình Hoà Bắc, một số đồng chí tập kết gồm:
-Phạm Văn Bé
-Nguyễn Ngọc Nhán( Sáu Nhán)
-Lê Văn Chiếu
-Mai Văn Đúng
-Nguyễn Văn Trân
-Nguyễn Văn Sà
-Nguyễn Văn Bàng
-Nguyễn Văn Giác
…
Một số cán bộ, đảng viên, du kích bám trụ địa bàn, hoạt động và lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương:
-Đặng Ngọc Sáng -Bí thư chi bộ
-Võ Hoàng Thượng
-Nguyễn Công Luận
-Phùng Văn Kình
-Nguyễn An Khương
-Trịnh Văn Khơi
-Mai Thành Long
-Trần Quốc Tuấn
-Trần Văn Phướng
-Huỳnh Văn Bạch
-Uông Sĩ Kính
…
Cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của nhân dân Bình Hoà Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã kết thúc thắng lợi.Trong suốt chiều dài cuộc kháng chiến, tùy tình hình mỗi giai đoạn, cuộc kháng chiến có lúc sôi nổi, có lúc tạm lắng bởi sự càn quét khốc liệt của giặc Pháp. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng và chính quyền cách mạng, nhân dân Bình Hoà Bắc thể hiện sức chiến đấu bền bỉ, sự hy sinh to lớn, biết bao cán bộ, đảng viên, du kích, nhân dân Bình Hoà Bắc đã ngã xuống mảnh đất quê hương trong những năm tháng chiến tranh ác liệt. Bình Hoà Bắc tiếp giáp với căn cứ địa Đồng Tháp Mười, vì vậy địch tập trung các cuộc càn quét, khủng bố liên tục gây không ít khó khăn cho quá trình kháng chiến tại địa phương.Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng và chính quyền kháng chiến, nhân dân Bình Hoà Bắc với lòng yêu nước thiết tha, sức chịu đựng bền bĩ, đã kiên trì kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.
Trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, vai trò lãnh đạo của chi bộ Đảng và chính quyền cách mạng xã Bình Hoà Bắc rất quan trọng. Dù địch càn quét liên tục, các đồng chí vẫn tiếp tục lãnh đạo nhân dân tham gia kháng chiến, đề ra những chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ cách mạng.Trong thắng lợi chung của quân dân Bình Hoà Bắc, sự điều hành trực tiếp công cuộc kháng chiến của chính quyền cách mạng và các đoàn thể là không thể thiếu.Thực hiện sự lãnh đạo của chi bộ, chính quyền kháng chiến cụ thể hoá đường lối của Đảng, trực tiếp điều hành, chỉ đạo, hướng dẫn nhân dân tham gia đấu tranh, tiêu diệt kẻ thù. Các đoàn thể vận động, kêu gọi nhân dân tham gia, ủng hộ kháng chiến, nhất là vận động thanh niên tòng quân giết giặc. Thắng lợi của thời kỳ 9 năm không thể phủ nhận vai trò của lực lượng du kích-những chiến sĩ trực tiếp chiến đấu với kẻ thù. Sự dũng cảm, hy sinh của du kích là những đóng góp to lớn đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành lại độc lập tự do. Thời kỳ kháng chiến 9 năm, nổi bật lên vai trò của quần chúng cách mạng. Chính nhân dân Bình Hoà Bắc là nhân tố quan trọng nhất quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến.Trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, nhân dân là những người đùm bọc, nuôi dưỡng, bảo vệ cho các đồng chí cán bộ, đảng viên, du kích. Nhân dân cũng là lực lượng tham gia,ủng hộ kháng chiến từ vật chất đến tinh thần, góp phần vào thắng lợi chung, giành lại độc lập cho quê hương.
Là một trong những xã có phong trào đấu tranh nổi bật trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Bình Hoà Bắc được Trung ương Đảng khen tặng là một trong những địa phương đấu tranh dẫn đầu các xã ở Nam Bộ.
Kết thúc chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tình hình xã Bình Hoà Bắc vẫn còn khó khăn khi lực lượng cách mạng còn hạn chế. Mặt khác địa bàn của xã nằm trong tầm kiểm soát của kẻ thù, vì vậy những thử thách trước mắt của Đảng bộ và nhân dân Bình Hoà Bắc không hề giảm khi bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai.
Chương III
BÌNH HOÀ BẮC TRONG CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC
(1954-1975)
1. Đấu tranh chính trị buộc địch thi hành Hiệp định Genève, chống “tố cộng, diệt cộng”, củng cố và xây dựng lực lượng cách mạng (1954- 1959)
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 09 năm trường kỳ gian khổ, hy sinh nhưng hết sức vinh quang của dân tộc ta đã kết thúc bằng Hiệp định Genève -1954, công nhận độc lập, chủ quyền của Việt Nam, Nam-Bắc sẽ tiến tới tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Thế nhưng niềm vui chưa được trọn vẹn, nhân dân Chợ Lớn-Tân An cũng như toàn thể đồng bào miền Nam lại bước vào cuộc đấu tranh mới. Cuộc đấu tranh trước mắt không kém phần gay go, gian khổ, ác liệt, hy sinh mất mát bởi vì kẻ thù sẽ càng nguy hiểm và thâm độc hơn gấp bội: đó là chủ nghĩa thực dân mới-đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Sau Hiệp định Genève-1954, đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp chiếm lấy miền Nam Việt Nam với ý đồ xây dựng nơi đây thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự-pháo đài chống Cộng ở Đông Nam Á và cả Châu Á. Chúng dùng mọi thủ đoạn ra sức thiết lập, xây dựng và củng cố bộ máy cai trị mới. Ngày 23-10-1955, chúng bày trò trưng cầu dân ý, truất phế Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên ngôi tổng thống, mở đầu thời kỳ của chế độ độc tài, phát xít: con đẻ chính sách thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ.
Từ khi lên nắm chính quyền, được sự giúp sức của quan thầy Mỹ, chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm ráo riết tăng cường trang bị, huấn luyện, xây dựng quân đội thành công cụ đàn áp cách mạng miền Nam. Với chiêu bài là viện trợ của Mỹ, chế độ Diệm đã biến kinh tế miền Nam thành nền kinh tế bị lệ thuộc và nô dịch. Để tạo bức bình phong đàn áp cách mạng miền Nam, chúng hô hào, tổ chức các chiến dịch “tố cộng”,“bài phong, “đã thực”, dựng lên những khu trù mật, khu dinh điền…thực tế là để đàn áp phong trào cách mạng và các đảng phái đối lập....
Chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm ban hành luật phát xít 10/59- một luật hình dã man nhất. Bằng hình luật này, chúng lê máy chém khắp miền Nam để khủng bố những người yêu nước, những người kháng chiến cũ và uy hiếp tinh thần đấu tranh của nhân dân miền Nam. Chính sách phản động trên của Mỹ-Diệm đã gây ra biết bao đau thương, tang tóc cho cán bộ, đảng viên và đồng bào. Bộ mặt hiếu chiến của chúng đã bị vạch trần trước công luận thế giới và ngay trong lòng nước Mỹ.
Với truyền thống bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, tinh thần yêu nước của nhân dân miền Nam càng được hun đúc và sống dậy hơn bao giờ hết. Chế độ hà khắc, tàn bạo của Mỹ-Diệm đè nén bao nhiêu thì làn sóng đấu tranh quyết liệt của nhân dân càng bùng lên mạnh mẽ bấy nhiêu, dưới rất nhiều hình thức từ thấp đến cao, linh hoạt và đa dạng.
Sau khi tiêu diệt các phe phái chống đối, chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm nhanh chóng áp đặt bộ máy cai trị trên toàn miền Nam từ tỉnh đến quận, xã, ấp.Tại Bình Hoà Bắc, địch tăng cường lực lượng và thiết lập hệ thống kềm kẹp ngày càng dày đặc. Chúng cho đóng đồn tại khu Hội đồng Sầm do tên thượng sĩ Đa (còn gọi Ách Đa) làm đồn trưởng, quân số khoảng 01 tiểu đội. Đồn kinh Xáng do tên trung úy Phượng làm đồn trưởng, quân số khoảng 01 đại đội.Từ năm 1955-1957, địch còn đưa thêm 01 đại đội lính Bảo An đóng tại khu Hội đồng Sầm. Đến năm 1957, tại xã Bình Hoà Bắc có những tên tay sai ác ôn:Huỳnh Văn Láng(Cả Láng), Lê Văn Sáng (Cả Sáng), Cả Hải, Xã Quằng, những tên này phụ trách chung về mọi mặt của xã; Hương hào Chơi, Hương quản Hóng (Nguyễn Văn Hóng) là những tên phụ trách về quân sự và an ninh, chỉ huy 01 tiểu đội dân vệ. Bộ phận quân sự gồm: Bảo an, dân vệ, cảnh sát chìm, cảnh sát nổi, tề làng...
Để đối phó với âm mưu và thủ đoạn của địch, tháng 10-1954, Xứ ủy Nam bộ củng cố lại các Tỉnh ủy. Xã Bình Hoà Bắc thuộc huyện Thủ Thừa, tỉnh Tân An.Tỉnh ủy Tân An thực hiện chủ trương của Xứ ủy, tiến hành chôn giấu vũ khí, cài người vào các lực lượng giáo phái, các Ban hội tề xã, dân vệ, bảo an và các tổ chức trong lòng địch để ủng hộ các cuộc đấu tranh của quần chúng và bảo vệ lực lượng cách mạng.Tại Bình Hoà Bắc, ta đưa đồng chí Nguyễn Văn Luận(đảng viên)làm Chủ ấp An Hoà và 3 đồng chí(đảng viên) làm Chủ ấp Hoà Tây: Nguyễn Văn Lục(1955), Lê Văn Hớn(1956),Đặng Văn Nhầm(1957). Nhiệm vụ của các chủ ấp do ta cài vào hàng ngũ địch để nắm bắt những âm mưu, thủ đọan của kẻ thù, kịp thời phát hiện những vụ bắt bớ cán bộ, đảng viên.Từ đó, có kế hoạch đối phó, làm giảm đi những thiệt hại cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và phong trào cách mạng ở địa phương.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Tân An và Huyện ủy Thủ Thừa, chi bộ Đảng Bình Hoà Bắc được củng cố.
-Đặng Ngọc Sáng- Bí thư chi bộ
-Võ Hoàng Thượng
-Phùng Văn Kình
-Nguyễn An Khương
-Trịnh Văn Khơi
-Mai Thành Long
-Huỳnh Văn Bạch
-Uông Sĩ Kính
Dưới sự khủng bố của địch, chi bộ Đảng phải rút vào hoạt động bí mật. Để thực hiện các cuộc đấu tranh, các đồng chí lãnh đạo chi bộ tổ chức, vận động quần chúng xây dựng cơ sở cách mạng ở từng ấp,củng cố các cơ sở còn được giữ vững từ 09 năm kháng chiến chống Pháp; đồng thời thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Thủ Thừa về hình thức đấu tranh: phát huy thắng lợi của Hiệp địch Genève, tận dụng thời cơ địch còn lỏng lẻo và hoang mang, phát động nhân dân biểu dương lực lượng, nêu cao khí thế cách mạng, tổ chức các cuộc biểu tình mừng hòa bình, đòi địch thi hành Hiệp định Genève...Cuối năm 1955, dưới sự lãnh đạo của chi bộ, tại sân banh ấp An Hoà, ta tổ chức thi đấu bóng đá nhằm mục đích tập hợp quần chúng biểu tình phản đối chính sách bắt bớ và đàn áp những người kháng chiến cũ, những người dân vô tội đồng thời đấu tranh buộc địch thi hành những điều, khoản của Hiệp định Genève-1954. Sau khi trận đấu kết thúc, hàng trăm người đã biểu tình tại ấp An Hoà, đòi địch thực hiện Hiệp định Genève, chống đi đấp đồn, chống quân dịch với khẩu hiệu, băng rôn đã chuẩn bị từ trước như“ Đã đảo Mỹ-Diệm”,“ Hiệp thương hai miền Nam-Bắc để Tổng tuyển cử thống nhất đất nước”...Đoàn người kéo đi khắp các ấp trong xã, biểu dương lực lượng làm cho địch hoang mang trước khí thế cách mạng của quần chúng. Ngoài các cuộc biểu tình, chi bộ xã còn phát động quần chúng rải truyền đơn do ông Nguyễn Văn Kế là người thực hiện thường xuyên, làm cho địch hoang mang, dao động. Để hợp thức hoá các cuộc đấu tranh, chi bộ hướng dẫn quần chúng học tập về những vấn đề cơ bản của hiệp định Genève, các chỉ thị của cấp trên về việc tạm ngưng đấu tranh vũ trang theo tinh thần hiệp định đình chiến. Tuy nhiên, phong trào đấu tranh của quần chúng cách mạng không kéo dài lâu, đến giữa năm 1956, chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm sau khi dẹp tan lực lượng thân Pháp và các giáo phái chống đối, đã tập trung lực lượng đánh vào phong trào cách mạng trên khắp miền Nam.
Để đối phó với các cuộc càn quét của địch, lợi dụng các giáo phái đang hoạt động chống lại chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, chi bộ xã quyết định thành lập đội tự vệ công khai tại ấp Hoà Tây với tên gọi là Cao Đài ly khai do ông Nguyễn Văn Hợi làm đội trưởng. Với hoạt động của đội tự vệ xã, các cuộc càn quét của địch giảm bớt do ta cài người vào hàng ngũ địch.Tuy vậy, do bọn chỉ điểm, hoạt động của đội tự vệ sớm bị địch đàn áp.Tại Bình Hoà Bắc, một số cán bộ, đảng viên và các chiến sĩ của đội tự vệ địch bắt và hy sinh trong giai đoạn điều lắng (1954-1959)gồm các đồng chí Nguyễn Văn Hợi (Đội trưởng -hy sinh năm 1956), Nguyễn Văn Chất (đảng viên), Phạm Văn Ren, Tám Phước, Bảy Nguyên, Tín, Lung...
Trong thời gian này, để bảo tồn lực lượng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, chủ trương của Xứ uỷ,Tỉnh uỷ Tân An thực hiện chủ trương “Điều lắng”. Lực lượng cách mạng chủ động chôn giấu vũ khí ở những nơi an toàn, những cán bộ, đảng viên chưa bị lộ thì ở lại địa phương hoạt động, những cán bộ, đảng viên bị lộ thì tạm lánh đi nơi khác để bảo tồn lực lượng. Phần lớn số cán bộ, đảng viên chưa bị lộ của ta tiếp tục bám trụ ở địa phương để lãnh đạo phong trào cách mạng, vạch rõ âm mưu thâm độc của địch thông qua các hình thức hoạt động công khai như: Hội Âm công, Hội đình, Hội miếu, Hội cấy, Hội cày…củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng trong thời kỳ địch khủng bố dã man. Do địch khủng bố điên cuồng, lực lượng cách mạng phải rút vào hoạt động bí mật. Để phù hợp với tình hình, ta thành lập 02 chi bộ còn gọi chi bộ A (chi bộ hợp pháp) và chi bộ B (chi bộ bí mật).
Chi bộ A ( hợp pháp) gồm các đồng chí:
-Tám Sẳng
-Hai Cổn
-Ba Chấp
-Ba Riệm
-Hai Khỏi
-Hai Đông
Chi bộ B (bí mật) gồm các đồng chí:
-Đặng Ngọc Sáng-Bí thư
-Võ Hoàng Thượng
-Nguyễn An Khương
-Trịnh Văn Khơi
-Mai Thành Long
-Trần Quốc Tuấn
-Huỳnh Văn Bạch (tự Tư Rồng)
-Phạm Công Hưởng
-Mai Văn Xưa
Đầu năm 1956, Ngô Đình Diệm Ban hành Chỉ dụ Số 2 và Số 7 nhằm phá hoại thành quả cải cách ruộng đất của chính quyền Cách mạng trong chín năm kháng chiến chống Pháp.Với Chỉ dụ Số 2, người nông dân từng được chính quyền cách mạng cấp ruộng đất nay trở thành trắng tay. Biến cố này làm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Địch dùng chính sách ruộng đất đánh vào đời sống của nhân dân cũng có nghĩa là đánh vào chỗ dựa sống còn của Đảng, của cách mạng. Trong khi đó, giai cấp địa chủ nhanh chóng được khôi phục, trở thành tay sai chống Cộng đắc lực cho chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm.
Tháng 03-1956, trong khi những người cộng sản ở lại miền Nam nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Genève thì chính quyền Ngô Đình Diệm ban hành chính sách “tố cộng, diệt cộng”. Tỉnh Chợ Lớn và tỉnh Tân An là một trong những nơi được chọn làm thí điểm đầu tiên cho chính sách này. Một làn sóng bắt bớ, khủng bố tàn bạo đã diễn ra khắp nơi. Đây là thời kỳ khó khăn của phong trào cách mạng ở địa phương, nhân dân Bình Hoà Bắc phải lần lượt chứng kiến những cán bộ, đảng viên bị địch bắt, tra trấn, tù đày và bị chúng giết hại. Mặc dù vậy, cán bộ, đảng viên còn lại vẫn kiên trung bám trụ để tiếp tục lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân đấu tranh chống lại sự khủng bố của Mỹ– Diệm.
Tháng 06-1956, chính quyền Ngô Đình Diệm tập trung toàn bộ lực lượng tiến hành chính sách “tố cộng, diệt cộng” đợt 2 một cách tàn bạo hơn. Bọn địch đi đến đâu, nghi ngờ ai là Việt cộng thì đốt nhà, bắt bớ, tra tấn, thủ tiêu...gây không khí đau thương, tang tóc bao trùm khắp nơi. Lực lượng cán bộ “Công dân vụ” của địch đến từng nhà dân thúc ép nhân dân viết giấy ly khai với người thân đi tập kết, ly khai với Việt cộng. Đồng thời chúng bắt ép từng gia đình phải chụp ảnh với dòng chữ vẽ sẳn trên biển“Gia đình tôi cam kết chống Cộng”, vẽ trên trần hoặc vách của từng nhà hình lá cờ ba sọc của nguỵ quyền...Một trong những cách ly gián và kiểm soát cán bộ, đảng viên là địch tổ chức hình thức “Ngũ gia liên bảo”, 05 nhà có một Liên gia trưởng quản lý, bố trí những tên chỉ điểm nằm rải rác trong dân để dễ dàng kiểm soát các gia đình tham gia cách mạng, gây nghi kỵ, chia rẽ...trong nhân dân. Hành động của địch vô cùng thâm độc, nhiều cán bộ, đảng viên đã hy sinh một cách rất oan uổng. Những hành động khủng bố của Mỹ - Diệm đã nung nấu quyết tâm khởi nghĩa vũ trang ngày càng mãnh liệt hơn trong quần chúng cách mạng.
Tháng 07 năm 1956, địch mở liên tiếp hai chiến dịch "Thoại Ngọc Hầu" và "Trương Tấn Bửu" tập trung hàng chục trung đoàn, tiểu đoàn đánh vào lực lượng cách mạng từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ.Tại huyện Thủ Thừa, chúng đưa quân càn quét khắp địa bàn huyện, đặc biệt là 02 xã Bình Hoà Bắc và Bình Thành-căn cứ cách mạng thời 09 năm chống Pháp. Tại Bình Hoà Bắc, trong một cuộc càn quét, do chỉ điểm chúng bắt được các đồng chí Võ Hoàng Thượng, Mai Thành Long, Trịnh Văn Khơi (đều là đảng viên).Bọn chúng đưa các đồng chí về giam tại khám đường Tân An.Sau chiến dịch này, trong hàng ngũ cách mạng ở Bình Hoà Bắc có kẻ phản bội(đó là Trương Ngọc Đông[6]- Bí thư ấp An Hoà và Võ Văn Tẩm- đảng viên) nên một số đồng chí lãnh đạo chi bộ và đảng viên bị bắt gồm Đặng Ngọc Sáng (Bí thư xã)- bị địch bắt ngay hầm bí mật tại nhà ở ấp An Hoà, đồng chí Nguyễn Văn Luận (đảng viên), đồng chí Uông Sĩ Kính (đảng viên) và một số đảng viên khác. Những đồng chí của ta bị chúng đưa về giam giữ tại khám đường Tân An. Cũng trong thời kỳ này, một số cơ sở cách mạng cũng bị bọn chỉ điểm báo cho địch biết. Nhiều người đã bị chúng bắt bớ, giam cầm, gồm các ông Nguyễn Văn Kế, Mười Nghĩa, Ba Quanh và bà Bùi Thị Sa. Có thể nói giai đoạn này lực lượng cán bộ, đảng viên, cơ sở cách mạng của xã Bình Hoà Bắc bị tổn thất khá lớn.
Theo đà tiếp tục đàn áp, khủng bố và kiểm soát chặt chẽ của địch, tình hình thực tế cách mạng miền Nam không thể đi đến thắng lợi bằng con đường đấu tranh chính trị đơn thuần.Trên tinh thần nhận thức đó, Nghị quyết của Xứ ủy vạch rõ“Con đường tiến lên của cách mạng miền Nam phải dùng bạo lực giành chính quyền”. (Trích trong Đề cương Cách mạng miền Nam do đồng chí Lê Duẩn- Bí thư Xứ ủy soạn thảo năm 1955). Xuất phát từ nhu cầu trên, các đơn vị vũ trang được sắp xếp lại. Tiểu đoàn 506 được thành lập tại Bình Hoà Bắc (khu Hội đồng Sầm) với quân số trên 150 người, vũ khí còn hạn chế, một số phải trang bị giáo mác...Theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, Tiểu đoàn 506 đã phối hợp với các xã phía bắc Thủ Thừa, trong đó có xã Bình Hoà Bắc đẩy mạnh công tác xây dựng căn cứ địa, tổ chức các đội du kích mật để bảo vệ căn cứ, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng.Tại Bình Hoà Bắc, khu Hội đồng Sầm-là một trong những căn cứ quan trọng của lực lượng vũ trang tỉnh Long An thời kỳ đầu mới thành lập.
Từ cuối năm 1957, chi bộ Bình Hoà Bắc xây dựng được tổ du kích mật do một số đảng viên làm nòng cốt. Tuy nhiên, lực lượng này ban đầu trang bị vũ khí đơn giản, phải trú đóng ở đồng bưng chờ đêm xuống để về xóm, ấp hoạt động. Tổ du kích mật đã phối hợp với Tiểu đoàn 506 làm công tác vũ trang tuyên truyền, hỗ trở cho quần chúng trấn áp tề , điệp và trừ khử những tên ác ôn, giúp nông dân giành lại ruộng đất, hạn chế sự theo dõi, bắt bớ cán bộ, đảng viên của địch. Cuối năm 1959, được sự hỗ trợ của lực lượng Tiểu đoàn 506, du kích mật xã Bình Hoà Bắc dẫn đường đã tiêu diệt những tên phản bội làm tay sai cho địch là Trương Ngọc Đông,Võ Văn Tẩm. Bọn chúng bị lực lượng các mạng trừng trị tại nhà ở ấp An Hoà. Tiêu diệt những tên chỉ điểm lợi hại làm giảm đáng kể những thiệt hại mà bọn địch gây ra trên địa bàn xã Bình Hoà Bắc.
Ngày 03-03-1959, chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm ra nghị định số 48/NV, thành lập quận Đức Huệ bao gồm các xã Mỹ Quý Đông, Mỹ Quý Tây, Mỹ Thạnh Đông, Mỹ Thạnh Tây, Mỹ Thạnh Bắc, Bình Hòa Bắc, Bình Hoà Nam và 03 xã An Ninh, Lộc Giang, Hiệp Hòa (quận Đức Hòa). Quận lỵ Đức Huệ đặt tại Quéo Ba, thuộc xã Mỹ Quý Tây. Về phía ta, để phù hợp trong việc lãnh đạo phong trào cách mạng, tháng 05-1959, theo chỉ đạo của cấp trên, Tỉnh ủy Long An cũng thành lập huyện Đức Huệ giống như cách phân chia địa giới hành chính của địch.
Sau thời gian thực hiện nhiều thủ đoạn nhằm đàn áp phong trào cách mạng và tiêu diệt những người cộng sản ở miền Nam không đạt kết quả mong muốn, ngụy quyền Ngô Đình Diệm ra đạo luật 91 (còn gọi là Luật 10/59-Luật này ban hành vào tháng 10 năm 1959) với nội dung chính là đặt những người cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, đưa máy chém khắp miền Nam để thẳng tay giết hại những người cộng sản. Đây là Luật vô nhân đạo, thể hiện sự độc tài, phát-xít. Bọn chúng thẳng tay bắn giết bất cứ ai chúng cho là cộng sản và ngay cả thường dân vô tội bị nghi ngờ là cộng sản đều bị giết hại dã man mà không cần đem ra xét xử. Trước tình thế khó khăn lúc bấy giờ, cán bộ, đảng viên, cơ sở cách mạng của xã phải tạm lánh sang vùng căn cứ cách mạng ở Bình Thành để bảo toàn lực lượng. Một số cán bộ, đảng viên nòng cốt bám trụ địa bàn, hướng dẫn phong trào đấu tranh và củng cố niềm tin đối với quần chúng.
Nhìn chung, trong giai đoạn 1954-1959, chi bộ Bình Hoà Bắc hoạt động trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, gian khổ, hy sinh mất mát. Cán bộ, đảng viên phải hoạt động trong vòng bí mật. Những đảng viên bị lộ rất khó hoạt động vì địch theo dõi gắt gao. Lực lượng du kích xã hầu như chỉ hoạt động vào ban đêm, cảnh cáo bọn tề làng, phối hợp với lực lượng của trên tiêu diệt những tên tay sai ác ôn có nhiều nợ máu với cán bộ, đảng viên và nhân dân.Trong thời kỳ khó khăn, gian khổ, những cơ sở nòng cốt của Đảng, những gia đình có truyền thống cách mạng ở Bình Hoà Bắc dù bị địch khủng bố dữ dội, vẫn quyết tâm che giấu cán bộ, đảng viên, du kích. Những cơ sở mật giai đoạn này gồm những gia đình sau: ấp An Hoà có Nguyễn Văn Chắc, ấp Hoà Tây có Đặng Ngọc Sáng (Bí thư xã), Uông Sĩ Kính, Huỳnh Văn Bạch, Bảy Đảng, Tám Hoà...
Dưới sự khủng bố của kẻ thù, nhiều cán bộ lãnh đạo, đảng viên và lực lượng du kích xã bị địch bắt, tù đày, một số đồng chí bị chúng giết hại. Đó là những tổn thất của phong trào cách mạng xã nhà trong thời kỳ đen tối, khó khăn chung của cách mạng miền Nam. Trong giai đoạn này, nhân dân Bình Hoà Bắc sống trong cảnh khốn cùng, bị đàn áp, khủng bố liên tục, cuộc sống người dân hết sức ngột ngạt, tăm tối. Từ đó, họ nung nấu tinh thần đấu tranh quyết liệt, sẵn sàng hy sinh để giải phóng dân tộc, thoát khỏi áp bức.
2.Trong phong trào Đồng khởi, tiến lên giải phóng xã nhà (1960-1961)
Giữa lúc Mỹ- Diệm thi hành luật 10/59, quy định việc thành lập các toà án quân sự đặc biệt nhằm xét xử những ai can tội “phá rối trị an” hoặc “có ý nghĩ phá rối trị an” với hai mức án là chung thân và tử hình bằng máy chém làm cho tình hình miền Nam trở nên vô cùng căng thẳng, đen tối. Trước tình hình đó, cuối năm 1959, Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 của Đảng được truyền đạt đến Long An cũng như khắp các tỉnh ở Nam Bộ. Tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng là cách mạng miền Nam phải dùng bạo lực cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, dùng lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc và tay sai.
Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng đến Long An vào cuối 1959 cũng là lúc nơi đây hội đủ những điều kiện để bùng lên một cuộc đấu tranh rộng lớn của quần chúng chống lại chế độ độc tài, phát xít Ngô Đình Diệm. Ngày 06-01-1960, Tỉnh ủy Long An hội nghị ở Giồng Ông Tưởng (Đức Huệ) nghiên cứu Nghị quyết 15 của Trung ương và Nghị quyết của Khu ủy Khu 8. Trên cơ sở đó, Tỉnh ủy quyết định phát động cao trào khởi nghĩa vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị để phá vỡ thế kìm kẹp của địch, giành lại quyền làm chủ của nhân dân.
Đêm 25-01-1960, Tỉnh ủy Long An phát đi lời kêu gọi khởi nghĩa (lúc ấy gọi là bản Nhật lệnh của Bộ Chỉ huy quân giải phóng Long An) : “Toàn thể đồng bào trong tỉnh hãy đồng loạt nổi dậy cùng quân giải phóng trừng trị những tên tề xã, chủ ấp, thám báo, công an làm tay sai cho Mỹ - Diệm có nhiều tội ác, giải tán tất cả các tổ chức kìm kẹp của địch, lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Người nào làm cho địch mà bỏ việc, đầu thú sẽ được khoan hồng. Người nào tự giao nộp vũ khí cho cách mạng, cho nhân dân sẽ được được thưởng đích đáng. Kẻ nào ngoan cố sẽ bị trừng trị”.
Ngay trong đêm 25-01-1960, Tiểu đoàn 506 tấn công đồn Đức Lập, mở màn cho phong trào Đồng khởi trên toàn tỉnh. Sau đó, hàng loạt các đồn bót địch ở các xã đã bị lực lượng vũ trang cách mạng và quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ ở cơ sở. Tại huyện Đức Huệ, Ban cán sự Đảng đã khẩn trương chỉ đạo các chi bộ lãnh đạo quần chúng nổi dậy. Được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang tỉnh, lực lượng vũ trang huyện Đức Huệ chia làm hai hướng tấn công vào các đồn bót địch trên địa bàn huyện. Hướng thứ nhất do đồng chí Nguyễn Văn Tên chỉ huy, đứng chân ở Mỹ Thạnh Bắc tấn công vào khu vực Quéo Ba-Giồng Bún. Hướng thứ hai do đồng chí Trần Thanh Bay và đồng chí Phan Thái Hòa chỉ huy, đứng chân ở Bình Hòa Bắc và Mỹ Thạnh Đông, tấn công vào các đồn: kinh Xáng-Trà Cú, Bình Thành, Cầu Sắt, Á Rặc...Lực lượng ta bao vây, cô lập các đồn bót, hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần chúng, diệt ác, trừ gian, đòi dân sinh, dân chủ.
Đợt 1 của phong trào Đồng khởi, dưới sự lãnh đạo của chi bộ do đồng chí Nguyễn An Khương làm Bí thư đã phát động quần chúng hổ trợ lực lượng du kích xã trừ gian, diệt ác. Lúc bấy giờ, lực lượng du kích xã gồm 01 tiểu đội du kích mật với tên gọi là Thanh niên giải phóng do đồng chí Sáu Thế làm Đội trưởng. Tiểu đội du kích mật với thành phần sau: Nguyễn Văn A, Lương Công Thành, Huỳnh Văn Đủ, Huỳnh Văn Hỏi, Huỳnh Văn Nề, Mai Thành Ớn, Nguyễn Văn Bình...Với vũ khí trang bị thô sơ như súng tự tạo, tầm vông vạt nhọn, mã tấu, dao găm và những gì có thể sử dụng làm vũ khí, du kích xã đã trừ gian diệt ác, cảnh cáo bọn tề làng. Trước khí thế cách mạng của quần chúng và lực lượng du kích xã, bọn địch đóng đồn ở khu Hội đồng Sầm (ấp Hoà Tây) phải rút chạy, đồn địch bị phá bỏ. Bọn địch tại đồn kinh Xáng (ấp Chánh) bị du kích xã uy hiếp, làm chúng hoang mang, ban đêm chỉ cố thủ trong đồn, không dám bung ra ngoài càn quét như trước. Cũng trong phong trào Đồng khởi, du kích xã bắt được những tề làng làm tay sai cho địch như Cả Sáng, Xã Quằng, Quản Hóng tại ấp Chánh, đưa ra giáo dục và cảnh cáo, không được làm tay sai cho địch nếu không sẽ bị lực lượng cách mạng trừng trị.
Đợt 2 của phong trào Đồng khởi, theo chủ trương của cấp trên, chi bộ đã xây dựng lực lượng làm công tác binh vận, dân vận, phối hợp với lực lượng vũ trang để hình thành nên thế trận 3 mũi giáp công. Chi bộ đã tổ chức và lãnh đạo một số cuộc mít-tinh hạ uy thế của bọn địa chủ ác ôn, buộc chúng không được cướp ruộng đất, thu tô...Trung bình cứ khoảng 01 tuần lễ, chi bộ xã tổ chức mít-tinh 01 lần. Mỗi lần tổ chức mít -tinh đều kéo đến đồn kinh Xáng hô vang các khẩu hiệu chống càn quét, chống bắt lính làm cho địch vô cùng hoang mang, dao động, chỉ trong đồn cố thủ, không dám ra ngoài. Trong giai đoạn này, nổi bật lên phong trào đấu tranh của Nông hội và Hội phụ nữ xã. Chị em đã tổ chức thành những đoàn người biểu tình đòi dân sinh, dân chủ, chống đàn áp, chống khủng bố với khẩu hiệu:“Trả lại ruộng đất cho nông dân”,“Không được bắn giết, khủng bố nhân dân”...Sự đấu tranh quyết liệt của chị em đã làm cho địch rơi vào tình thế co cụm, không dám đưa quân càn quét như giai đoạn trước. Phụ nữ Bình Hoà Bắc và phụ nữ các xã của Đức Huệ còn tham gia biểu tình tại trung tâm Quận lỵ, tạo nên khí thế cách mạng sôi nổi trong đợt 2 của phong trào Đồng khởi. Phong trào Đồng khởi tại Bình Hoà Bắc khởi đầu từ ấp Hoà Tây, lực lượng cách mạng đã khống chế bọn địch tại khu Hội đồng Sầm, buộc bọn chúng rút khỏi đồn nơi đây, ấp Hoà Tây hoàn toàn được giải phóng. Sau khi đồn địch tại ấp Hoà Tây bị ta tiêu diệt, bọn địch tại đồn kinh Xáng-Trà Cú rất hoang mang, bị du kích xã uy hiếp, phong toả. Với khí thế cách mạng sôi sục, xã Bình Hoà Bắc cơ bản được giải phóng sau bao năm chịu sự đàn áp, khủng bố, kềm kẹp của kẻ thù.
Phong trào Đồng khởi nỗ ra khắp nơi ở miền Nam cùng với khí thế các mạng của quần chúng ngày càng dâng cao làm cho Mỹ-Diệm gặp nhiều trở ngại trong quá trình ổn định tình hình về chính trị, an ninh. Trong bối cảnh đó, ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước ngoặt lớn lao, tạo sự chuyển biến trong cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân miền Nam. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời chính là kết quả ngày càng lớn mạnh của phong trào yêu nước ở miền Nam, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, vì sứ mạng lịch sử thiêng liêng đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng dân tộc. Mặt trận Dân tộc giải phóng ra đời đã tập hợp tất cả các lực lượng yêu nước, lãnh đạo nhân dân miền Nam bước lên một bước mới, sẵn sàng đối phó với âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai.
Sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, hầu hết các tỉnh ở miền Nam đều thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng của địa phương. Ngày 30 tháng 12 năm 1961, tại khu Hội đồng Sầm-ấp Hoà Tây, xã Bình Hoà Bắc, Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Long An ra đời đã đáp ứng kịp thời nhu cầu đấu tranh và nguyện vọng của lực lượng vũ trang và nhân dân tỉnh nhà. Đại hội được tiến hành trong 03 ngày(từ ngày 27-30 tháng 12-1961). Tham dự đại hội gồm tất cả các đại biểu của Đảng, các lực lượng vũ trang, công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, đoàn thể, tôn giáo,...đã tập trung về trường học Xóm Công Đoàn trong khu Hội đồng Sầm. Sau hai ngày họp, thảo luận, ngày 30-12-1961, đại hội đã chính thức tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Long An và công bố thành phần của Ủy ban Mặt trận. Danh sách của Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Long An như sau:
-Châu Văn Bảy-Chủ tịch, đại diện trí thức
-Nguyễn Ngọc Việt- Phó chủ tịch, đại diện Đảng; lúc ấy là Phó Bí thư Tỉnh ủy Long An.
-Nguyễn Văn Đậu- Phó chủ tịch, đại diện Công giáo
-Nguyễn Văn Thông-đại diện Cao Đài phái Chơn lý Tầm Nguyên
-Trần Thanh Đạm- cán bộ Ban Công giáo vận Tỉnh ủy
-Huỳnh Công Thân-đại diện Lực lượng vũ trang
-Thiều Thành Lập-đại diện Nông dân
-Trần Văn Châu-đại diện Thanh niên
-Võ Thị Lụa-đại diện Phụ nữ
-Trần Văn Lê-(Út Long) đại diện sinh viên, học sinh
-Tổng thư ký: Nguyễn Văn Vệ (Bảy Giáo)
Sau khi thành lập, Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Long An tổ chức mít- tinh công khai để ra mắt quần chúng. Buổi mít-tinh được tổ chức trọng thể, trang nghiêm, cờ xí rợp trời, đèn măng-xông sáng rực thu hút hơn 7.000 người từ khắp nơi kéo về, có cả quần chúng ở Bến Lức, Đức Hoà... tham dự. Nhân dân tự may cờ Mặt trận, gói bánh tét giấu trong người, tự nguyện đến dự mít tinh trong trật tự và bí mật để địch không phát hiện. Tại điểm mít- tinh, quần chúng xếp hàng theo từng xã, tay mỗi người đều có cờ mặt trận, bên ngoài có lực lượng vũ trang giữ an ninh, sẵn sàng đối phó khi bị địch càn quét. Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Long An với chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các Đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo và thân sĩ yêu nước, không phân biệt xu hướng chính trị để đấu trang đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm; thực hiện độc lập dân chủ, hoà bình trung lập, tiến tới thống nhất đất nước. Mặt trận kêu gọi tất cả công nhân, nông dân, trí thức, các tôn giáo, thân hào,...toàn tỉnh đoàn kết dưới ngọn cờ của Mặt trận, xông lên bẻ gãy gông xiềng nô lệ giành độc lập tự do.
Sự kiện Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Long An được thành lập tại xã Bình Hoà Bắc là sự kiện chính trị nổi bật, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân dân Long An. Xã Bình Hoà Bắc được chọn là địa điểm thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng bởi vì nơi đây từng là căn cứ cách mạng thời kỳ 9 năm chống Pháp, có vị trí, địa hình thuận lợi. Bên cạnh đó, nhân dân Bình Hoà Bắc với truyền thống đấu tranh bất khuất, trung thành với Đảng, với cách mạng, là chổ dựa vững chắc cho phong trào cách mạng khi địch càn quét, đàn áp, khủng bố. Sự kiện Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Long An thành lập tại Bình Hoà Bắc là niềm vinh dự đồng thời là nhiệm vụ rất khó khăn của Đảng bộ và nhân dân nơi đây. Với sự kiện chính trị nổi bật trên, Bình Hoà Bắc là mục tiêu đánh phá điên cuồng của địch. Chính vì vậy, nỗ lực vượt qua gian nan, thử thách của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và đồng bào Bình Hoà Bắc trong những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ rất xứng đáng được trân trọng và tự hào.
Sau hai năm Đồng khởi, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, quân và dân Bình Hoà Bắc đã phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng quân sự, chính trị, binh vận, tạo thành một thế trận liên hoàn, lập nên nhiều chiến công xuất sắc. Trong 2 năm 1960-1961, du kích Bình Hoà Bắc đã diệt nhiều tên ác ôn, chỉ điểm, giáo dục nhiều tên làm tay sai cho địch. Trên mặt trận vũ trang, lực lượng du kích xã đã đánh nhiều trận lớn nhỏ, có những trận phối hợp với cấp trên tiêu địch ở cấp trung đội, đại đội. Du kích xã đã tiêu diệt đồn địch tại khu Hội đồng Sầm, bao vây, uy hiếp đồn kinh Xáng, làm cho địch hết sức hoang mang. Đối với công tác binh vận, ta vận động nhiều binh sĩ ngụy trở về với cách mạng, làm lung lay ý chí của địch.Về đấu tranh chính trị, nhân dân trong xã đã tham gia hàng chục cuộc biểu tình, mít-tinh, thị uy vũ trang đấu tranh trực diện với kẻ thù. Qua đấu tranh, lực lượng cách mạng xã Bình Hoà Bắc ngày càng trưởng thành, từ lực lượng yếu ở thế bị động, trở thành lớn mạnh, chủ động tấn công tiêu diệt địch. Với sức mạnh của quần chúng và khí thế cách mạng dâng cao, quân và dân Bình Hoà Bắc đã phá tan hệ thống đồn bót giặc (riêng đồn địch ở kinh Xáng -ấp Chánh vẫn còn), trấn áp bọn tay sai, giải phóng cơ bản xã nhà, góp phần quan trọng giải phóng phần lớn huyện Đức Huệ lần thứ nhất.
3.Góp phần đánh bại chiến lược"Chiến tranh đặc biệt"của Mỹ-ngụy, tham gia giải phóng huyện Đức Huệ(1962 -1964)
Thắng lợi của phong trào Đồng khởi những năm 1960-1961 trên khắp miền Nam đã làm cho bộ máy kềm kẹp của ngụy quyền ở cơ sở sụp đổ, làm cho chiến lược“Chiến tranh một phía” mà Mỹ-ngụy đã thi hành từ sau Hiệp định Geneve-1954 bị phá sản hoàn toàn. Vì thế, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm đã thay thế chiến lược chiến tranh mới. Đó là “Chiến tranh đặc biệt” với kế hoạch cụ thể là bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Thực hiện kế hoạch này gồm 3 bước. Đầu tiên , Mỹ-ngụy dự định dồn dân lập ấp chiến lược trên toàn miền Nam. Kế đến, Mỹ sẽ viện trợ để phát triển kinh tế miền Nam theo đường lối tư bản, đồng thời cung cấp vũ khí, phương tiện chiến tranh, lực lượng cố vấn quân sự để tăng cường sức mạnh cho ngụy quân. Sau khi đã ổn định tình hình, Mỹ sẽ xây dựng miền Nam thành thuộc địa kiểu mới với nền kinh tế phát triển, quân sự mạnh mẽ, dùng miền Nam làm bàn đạp khống chế vùng Đông Nam Á và Châu Á. Đế quốc Mỹ dự tính thực hiện kế hoạch này trong vòng 03 năm và sớm kết thúc chiến tranh tại miền Nam Việt Nam.
Trước âm mưu của địch, Bộ Chính trị cũng đã có sự chuyển hướng chiến lược. Nghị quyết nêu rõ:" Thời kỳ tạm ổn định của chế độ Mỹ-Diệm đã qua và thời kỳ khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu. Các hình thức chiến tranh du kích cục bộ, khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện, mở đầu cho một thời kỳ cách mạng ngày càng rộng lớn...”
Cách mạng miền Nam giai đoạn này có một số thay đổi về tổ chức: Xứ ủy Nam Bộ được tổ chức lại thành Trung ương Cục miền Nam. Trên tinh thần Nghị quyết của Bộ Chính trị, Trung ương Cục miền Nam ra nghị quyết vào tháng 4-1961 với nội dung chính sau:"Đẩy mạnh đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang lâu dài, đánh đổ địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”.
Trên cơ sở quán triệt nghị quyết của Trung ương Cục, của Khu ủy Khu 8, Tỉnh ủy Long An căn cứ vào thực tiễn tình hình địa phương, đã ra Nghị quyết:"Phát huy thắng lợi của Đồng khởi 1960-1961, động viên mọi lực lượng của tỉnh, tạo thế mới, lực mới, tiến lên giành thắng lợi cao hơn, đánh bại những thủ đoạn mới của địch trên chiến trường Long An”. Nghị quyết của Tỉnh ủy là nhiệm vụ trọng tâm, Huyện ủy Đức Huệ nhanh chóng phổ biến xuống địa bàn các xã, tiếp tục phát huy thế tiến công của phong trào Đồng khởi, sẵn sàng đối phó với âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù, đấu tranh vũ trang kết hợp với chính trị, góp phần làm phá sản kế hoạch bình định miền Nam của Mỹ-Diệm.
Trên địa bàn xã Bình Hoà Bắc, từ cuối năm 1961 đã là vùng giải phóng, phong trào cách mạng của xã phát triển khá mạnh, chi bộ Đảng cùng lực lượng vũ trang phát triển đến tận cơ sở, các tổ chức quần chúng, cơ sở cách mạng phát triển rộng khắp.Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Đức Huệ về nhiệm vụ đấu tranh mới, chi bộ xã do đồng chí Nguyễn An Khương làm Bí thư đã phát động quần chúng chuẩn bị tinh thần đối phó với âm mưu gom dân lập "ấp chiến lược" của Mỹ-Diệm. Để đối phó với các cuộc càn quét của địch, công tác xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang địa phương được chú trọng, nhiều thanh niên được đưa vào du kích và quân số của du kích xã đã phát triển thành 01 trung đội. Bên cạnh đó, lực lượng dân quân không ngừng được củng cố và phát triển, sẵn sàng chiến đấu. Giai đoạn này, vũ khí chiến đấu còn hạn chế vì vậy việc sản xuất vũ khí tự tạo là rất quan trọng. Nhiều tổ sản xuất vũ khí được thành lập, sử dụng bom đạn lép của địch để chế tạo vũ khí thô sơ như lựu đạn gài, súng ngựa trời...và bố trí nhiều loại hình tiêu diệt địch như hầm chông sắt, hầm chông tre...Trên địa bàn xã, ấp nào cũng có tổ sản xuất vũ khí, do Xã đội và Ấp đội quản lý, chỉ huy.
Từ phong trào đánh giặc bằng vũ khí tự tạo ở địa bàn Đức Huệ, xuất hiện một người được nhân dân phong tặng danh hiệu “Kỹ sư chế tạo bom bi”, đó là đồng chí Ngô Văn Lớn - thuộc lực lượng an ninh xã Mỹ Thạnh Đông. Mặc dù chưa được đào tạo qua trường lớp chuyên môn nào, nhưng nhờ thông minh,chịu khó mày mò nghiên cứu, Ngô Văn Lớn trở thành người đầu tiên có sáng kiến dùng bom bi lép của Mỹ chế tạo lại thành trái gài để đánh Mỹ.Với phong trào sản xuất vũ khí tự tạo, noi theo sự sáng tạo của “kỹ sư Lớn”,lực lượng vũ trang Bình Hoà Bắc tích cực chế tạo vũ khí đánh địch. Dân quân, du kích đã gỡ những trái chưa nổ đem về chế tạo vũ khí, góp phần tiêu hao sinh lực địch khi vũ khí của ta còn khó khăn, thiếu thốn.
Tháng 01-1962, được sự hỗ trợ của bộ đội địa phương Đức Huệ, đồng thời kết hợp với các mũi binh vận của nhân dân trong xã, đồn kinh Xáng bị lực lượng ta tiến công, bọn địch trong đồn một số bị tiêu diệt, một số chạy thoát. Nhưng sau đó, chúng đưa quân đóng lại đồn này.
Tháng 03-1962, bọn địch ở đồn kinh Xáng đưa quân càn quét vào ấp Chánh (khu vực nhà bà Ba Kỳ), được sự hỗ trợ của Đại đội cơ động -bộ đội tỉnh, ta tổ chức phục kích nhưng địch không lọt vào trận địa của ta. Sau khi bộ đội tỉnh rút đi, người nhà của bọn lính trông thấy nên báo cho địch biết. Bọn địch đưa quân đến khu vực rạch Ba Thắt, bắn chết đồng chí Nguyễn Văn Đực và đồng chí Nguyễn Văn Sa (du kích xã). Sau đó, bọn chúng cắt đầu đồng chí Đực mang về đồn để uy hiếp tinh thần đấu tranh của nhân dân. Dã man hơn, trong một trận càn vào ấp An Hoà, không bắt được cán bộ, đảng viên, du kích, bọn địch tức giận, chúng bắt một thường dân vô tội là ông Thà, tra tấn ông dã man, bắt ông chỉ hầm bí mật của cán bộ. Ông trả lời không biết, chúng mổ bụng, moi gan ông! Gương dũng cảm của ông Thà tạo nên sự căm phẩn trong lòng quần chúng nhân dân, đồng thời tố cáo tội ác dã man của những kẻ tay sai bán nước.
Từ đầu năm 1962,Mỹ-ngụy tăng cường càn quét, gom dân lập ấp chiến lược trên phạm vi toàn tỉnh Long An. Mục đích của “ấp chiến lược” là tách nhân dân ra khỏi lực lượng cách mạng để dễ dàng kiểm soát, tiêu diệt. Để thực hiện kế hoạch này, địch tăng cường củng cố đồn bót, bắt lính, gom dân...Xã Bình Hoà Bắc cơ bản được giải phóng, do vậy, quá trình gom dân lập ấp chiến lược của địch gặp nhiều khó khăn.Trên địa bàn xã, địch chỉ lập được duy nhất 01 ấp chiến lược tại ấp Chánh (gần đồn kinh Xáng).Ấp chiến lược có qui mô khoảng 2 héc-ta (2 mẫu), được bao bọc bởi hàng rào dây thép gai. Để bảo vệ ấp chiến lược, địch tập trung lực lượng gồm 01Tổng đoàn dân vệ (01 đại đội) đóng tại đồn kinh Xáng do tên Năm Chẩu chỉ huy. Bên cạnh đó, lực lượng trực tiếp kiểm soát ấp chiến lược gồm 01 tiểu đội dân vệ do tên Phỉnh chỉ huy. Hàng ngày, địch dùng xe quân sự đưa quân càn quét, bắt dân từ các ấp khác đưa về ấp chiến lược.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ xã do đồng chí Nguyễn Văn Rô làm Bí thư kết hợp với lực lượng du kích, các đoàn thể vận động nhân dân không vào ấp chiến lược. Sáng địch gom dân vào ấp chiến lược thì đến tối, với sự hỗ trợ của du kích xã, cùng lực lượng nội gián (dân vệ) do ta cài vào, nhân dân trở về nhà. Sự việc cứ diễn ra liên tục làm cho quá trình gom dân lập ấp chiến lược ở Bình Hoà Bắc của địch gặp rất nhiều khó khăn, về cơ bản xã Bình Hoà Bắc là vùng giải phóng.
Giai đoạn này, lãnh đạo chi bộ xã là đồng chí Nguyễn Văn Rô, xã đội trưởng là đồng chí Bảy Bình, xã đội phó là đồng chí Nguyễn Văn Hới, Trưởng an ninh là đồng chí Phạm Văn Lớn, phụ trách Thanh niên là đồng chí Nguyễn Văn A, phụ trách Phụ nữ là đồng chí Lê Thị Kính, phụ trách Nông hội là đồng chí Lê Thành Công. Để hỗ trợ cho phong trào phá ấp chiến lược, chi bộ xã Bình Hoà Bắc kếp hợp đấu tranh chính trị do đoàn thể xã phát động, đấu tranh vũ trang do du kích xã trực tiếp chiến đấu và công tác binh vận, vận động binh lính ngụy rã ngũ, tạo điều kiện thuận lợi nhân dân rời khỏi ấp chiến lược.
Song song với việc phá “ấp chiến lược”, chi bộ xã phát động nhân dân xây dựng “xã chiến đấu”. Hàng trăm dân công tham gia đắp bờ cản dọc theo sông Vàm Cỏ Đông để ngăn tàu địch đưa quân càn quét vào địa bàn xã. Bờ đất đắp cao 1,5 m, rộng 1 m, chiều dài dọc theo sông Vàm Cỏ Đông thuộc địa bàn xã Bình Hoà Bắc. Trên bờ cản được ngụy trang bởi hệ thống hầm chông, mìn, lựu đạn…và được nhân dân trồng Dứa, Mù U để che mắt địch. Một số địa điểm dọc theo bờ cản, nhân dân còn treo bảng “tử địa” để uy hiếp tinh thần địch kể cả những nơi không có gài mìn, lựu đạn hay hầm chông. Từ khi “xã chiến đấu” hình thành làm cho địch luôn bị ám ảnh, khiếp sợ và hoang mang.Việc xây dựng “xã chiến đấu” đã góp phần quan trọng ngăn chặn các cuộc càn quét của địch đồng thời giữ vững vùng giải phóng, tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên và du kích tiếp tục bám trụ địa bàn, lãnh đạo và hướng dẫn phong trào đấu tranh của quần chúng được thuận lợi.
Thực hiện chủ trương của Huyện uỷ Đức Huệ, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ, nhân dân thuộc khu vực Xóm Công đoàn và nhiều nơi khác quyết tâm không vào “ấp chiến lược”. Một số cơ sở nòng cốt cách mạng ban đêm tìm cách bỏ về, nuôi giấu cán bộ trong hầm bí mật ở vườn, nhà cũ, đồng thời bám địa hình để sản xuất. Nhìn chung, phong trào phá “ấp chiến lược” trên địa bàn Bình Hoà Bắc thắng lợi trên các mặt trận chính trị, quân sự và binh vận, nhất là phong trào phụ nữ.Các mẹ, các chị không ngại hy sinh, gian khổ, hiểm nguy, quyết tâm phục vụ cách mạng, góp phần giải phóng quê hương. Đó cũng là thắng lợi của Đảng ta trong chủ trương đánh địch trên ba mặt trận chính trị, quân sự và binh vận.
Để bổ sung vào lực lượng du kích xã và tham gia bộ đội chính quy, các tổ chức đoàn thể vận động thanh niên tòng quân nhập ngũ, tham gia bộ đội. Hàng tháng chi bộ xã tổ chức Đại hội thanh niên ở ấp Hoà Tây, ấp An Hoà thu hút hàng trăm thanh niên tham gia. Qua mỗi lần đại hội, hàng chục thanh niên trong xã xung phong vào du kích, gia nhập quân đội. Giữa năm 1962, lực lượng du kích xã tăng lên một đại đội, du kích mỗi ấp gồm một trung đội, được trang bị vũ khí (phần lớn vũ khí tự tạo và vũ khí thu được của địch). Từ đầu năm 1963, địch tăng cường lực lượng để tiếp tục dồn dân lập ấp chiến lược, đưa quân càn quét, bắn phá liên tục nhất là khu vực căn cứ của ta. Bình Hoà Bắc là địa bàn địch thường xuyên đưa quân càn quét, bắn phá, huỷ hoại hoa màu nhằm triệt phá nguồn lương thực, thực phẩm của nhân dân, làm cho qúa trình tiếp tế lương thực cho bộ đội, che giấu cán bộ, đảng viên gặp không ít khó khăn.
Trước tình hình trên, Tỉnh ủy chỉ đạo cho các địa phương, căn cứ tình hình thực tế và lực lượng hiện có của mình để chống lại các cuộc càn quét, gom dân, lập “ấp chiến lược”. Mặt khác, lực lượng vũ trang tăng cường hoạt động chống càn để hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Thực hiện chỉ đạo của cấp trên, chi bộ vận động nhân dân bám đất giữ làng, thực hiện khẩu hiệu“một tấc không đi, một ly không rời”. Cuộc đấu tranh chống cào nhà, gom dân vào ấp chiến lược diễn ra hết sức quyết liệt. Nhân dân kiên quyết không vào sống ở khu tập trung. Giặc dỡ nhà thì đồng bào cất chòi để ở. Những gia đình đã bị gom vào ấp chiến lược thì tìm cách trốn ra. Chi bộ Bình Hoà Bắc còn tổ chức và lãnh đạo nhiều cuộc biểu tình của quần chúng đấu tranh chống cào nhà, gom dân, chống bắt lính. Mỗi cuộc đấu tranh có từ 100-200 đồng bào tham gia.
Nổi bật nhất là cuộc đấu tranh khoảng 1.000 đồng bào các xã Bình Hoà Bắc,Bình Hoà Nam, Bình Thành, Mỹ Thạnh Đông...vào cuối năm 1962. Trong cuộc biểu tình này, xã Bình Hoà Bắc có khoảng 300 người, tập trung tại Xóm Công đoàn để cùng nhân dân các xã lân cận hợp thành đoàn biểu tình khá lớn, chia làm 3 mũi kéo về Quéo Ba-nơi đặt trung tâm quận lỵ của địch. Dẫn đầu đoàn biểu tình có băng-rôn, khẩu hiệu với nội dung chống bắt lính, đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống gom dân vào “ấp chiến lược”. Khi đoàn biểu tình tiến đến cầu Bà Vòm, bọn địch dùng trung liên bắn xối xả để ngăn chặn. Tuy nhiên, đoàn người vẫn nắm chặt tay nhau, tiến về Quéo Ba đòi gặp quận trưởng Huỳnh Khương An.Tại Quéo Ba, một số người trong đoàn biểu tình đã bị bọn lính đánh đập dã man, có người bị thương nặng. Trước khí thế đấu tranh quyết liệt của quần chúng, cuối cùng tên Huỳnh Khương An phải ra trước dân, hứa sẽ giải quyết yêu sách của đồng bào.
Ngày 01-11-1963, Mỹ đạo diễn cho một số tướng lĩnh, đa số là những tướng trẻ, đứng đầu là Dương Văn Minh đảo chính, giết chết anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. Tranh thủ sự khủng hoảng chính trị của ngụy quyền Sài Gòn, Tỉnh ủy Long An chủ trương đẩy mạnh cao trào phá “ấp chiến lược”, đánh vào hệ thống đồn, bót của địch trên toàn tỉnh. Hưởng ứng chủ trương của tỉnh, cuối năm 1963, Huyện ủy Đức Huệ phát động cuộc biểu tình qui mô, lực lượng tham gia hàng ngàn người, kéo về tỉnh lỵ Hậu Nghĩa đấu tranh buộc địch không gom dân vào ấp chiến lược, chống đàn áp, bắt lính…Trong cuộc biểu tình này, Bình Hoà Bắc có hàng trăm đồng bào tham gia, góp phần vào thắng lợi chung phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng.
Trước sự khủng hoảng chính trị của ngụy quyền Sài Gòn, Tỉnh ủy chủ trương đánh vào những trung tâm lớn địch, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng.Tại địa bàn Đức Hoà, Đức Huệ, mục tiêu quan trọng cần phải tiêu diệt là căn cứ biệt kích Hiệp Hòa. Đây là căn cứ lớn của địch, nằm ở vị trí quan trọng, án ngữ đường hành lang nối liền khu vực đồng bằng sông Cửu Long với miền đông Nam Bộ và vùng đông nam của Campuchia. Bọn địch tại căn cứ Hiệp Hoà liên tục tổ chức càn quét, bắn phá, gây không ít khó khăn cho hoạt động của các tuyến giao liên từ vùng căn cứ Đức Huệ về Khu 8 và các địa bàn khác trong tỉnh. Tỉnh ủy chỉ đạo các địa phương phát động phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, tăng cường hoạt động của bộ đội địa phương và dân quân du kích để phối hợp và phục vụ cho trận đánh quan trọng tại căn cứ biệt kích Hiệp Hòa. Để phục vụ trận đánh trên, chi bộ xã đã huy động hàng trăm dân công tham gia. Các đoàn thể tổ chức thăm hỏi, cung cấp lương thực, thuốc men cho các chiến sĩ Đại đội 1 cơ động-lực lượng chủ công đánh vào căn cứ Hiệp Hòa đang luyện tập tại Bình Hòa Nam. Đêm 22 rạng 23-11-1963, quân ta tấn công căn cứ biệt kích Hiệp Hòa, bắt sống 4 sĩ quan cố vấn Mỹ và tiêu diệt hàng trăm biệt kích, thu 500 súng các loại cùng hàng tấn đạn dược.Sau trận đánh, Bình Hoà Bắc được chọn là địa điểm giam giữ 4 tên tù binh Mỹ trước khi đưa chúng trao trả về phía bên kia. Đây là những cố vấn Mỹ đầu tiên bị lực lượng cách mạng bắt giữ trên chiến trường Nam Bộ. Trong chiến thắng vang dội của trận Hiệp Hoà, có phần đóng góp của quân dân xã Bình Hoà Bắc.
Sang năm 1964, địch tăng cường hoạt động bình định, tiếp tục tổ chức càn quét, dồn dân vào ấp chiến lược. Để buộc nhân dân Bình Hoà Bắc vào các khu tập trung, địch thực hiện khẩu hiệu “bắn sạch, giết sạch”. Nhà cửa, tài sản của nhân dân bị đốt phá, trâu bò bị bắn giết vô số. Ngày cũng như đêm, địch cho bắn pháo bầy vào địa bàn xã. Máy bay địch quần đảo thả bom bi, bom dầu, chất độc hóa học nhằm mục đích biến Bình Hoà Bắc thành vùng trắng, hủy diệt hoa màu, không cho nhân dân lao động sản xuất. Trước tình hình trên, chi bộ xã do đồng chí Nguyễn Thị Kính làm Bí thư, chủ trương vận động nhân dân kiên quyết bám đất giữ làng, làm thất bại âm mưu của địch. Ban ngày địch đánh phá không cày cấy được thì nhân dân tranh thủ lao động vào ban đêm để sản xuất lương thực, ủng hộ cho cách mạng. Du kích xã ngày đêm bám sát địch tại đồn kinh Xáng (Trà Cú), bao vây cô lập, không cho chúng bung ra càn quét, đánh phá; đồng thời sẵn sàng chiến đấu khi chúng càn quét vào vùng giải phóng của xã. Cũng trong giai đoạn này, ấp chiến lược tại ấp Chánh bị ta phá liên tục, dần dần tan rã.
Đầu năm 1964, tại Xóm Công Đoàn, địch cho phi pháo hủy diệt nhà cửa, hoa màu. Địch dội xuống nơi đây hàng tấn bom, đạn...Không ở trong địa hình được, đồng bào nơi đây vẫn cương quyết bám trụ bằng cách dời ra đồng trống, tản ra nhiều nơi, đào hầm bí mật, bám ban ngày, ban đêm vô địa hình sản suất. Cuộc đấu tranh với địch dai dẳng hàng năm trời, chúng không đánh phá được vùng căn cứ cách mạng nơi đây. Cũng trong năm 1964, xã Bình Hoà Bắc đã tổ chức thí điểm thành công mô hình sản xuất theo phương thức hợp tác xã. Đồng chí Uông Sĩ Kính-Cán bộ nông hội tiếp cận được tài liệu nói về miền Bắc-Xã hội chủ nghĩa, trong đó có vấn đề về sản xuất tập thể theo mô hình “làm chung, hưởng chung”. Ông cho thí điểm gồm 5 hộ gia đình ở ấp Hoà Tây cùng góp vốn để sản xuất nông nghiệp, cùng đóng góp công sức để làm ra sản phẩm, sau đó khi thu hoạch bán sản phẩm cùng chia đều cho nhau. Tuy chỉ là mô hình thí điểm nhưng mang lại hiệu quả khá cao, người dân rất phấn khởi trước kiểu làm chung, hưởng chung. Tuy nhiên, mô hình chưa kịp nhân rộng thì đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ”, mọi người dân phải tập trung cho việc chiến đấu bảo vệ quê hương, mọi vấn đề khác đành phải gác lại. Nhìn chung, cho đến năm 1964, lực lượng cách mạng đã làm chủ gần như toàn bộ địa bàn xã Bình Hoà Bắc. Trong giai đoạn này, hầu hết các cuộc hành quân càn quét của địch đều bị lực lượng du kích được sự hỗ trợ của bộ đội tỉnh chặn đánh, gây cho chúng nhiều tổn thất.
Tháng 07-1964, được sự hỗ trợ của Tiểu đoàn 1 Long An, ta tổ chức tấn công địch tại đồn kinh Xáng.Tiểu đoàn I Long An do đồng chí Trương Công Xưởng chỉ huy, lực lượng Bình Hoà Bắc gồm 01 trung đội làm nhiệm vụ trinh sát và hậu cần. Sau thời gian nắm được quy luật hoạt động của địch, đêm 20 rạng 21-07-1964, quân ta tấn công vào đồn kinh Xáng, bọn địch bất ngờ, bị ta tiêu diệt gọn, một số bị ta bắt sống, một số chạy thoát, ta thu toàn bộ vũ khí. Sau trận đánh trên, đồn kinh Xáng bị phá bỏ (đến năm 1966 địch mới cho quân đóng lại), xã Bình Hoà Bắc hoàn toàn giải phóng.
Phối hợp với thế trận tấn công địch trên toàn tỉnh, Huyện ủy Đức Huệ chỉ đạo cho lực lượng quân sự, chính trị, binh vận của các xã tấn công mạnh vào các ấp chiến lược, tiến tới bức rút chi khu quân sự của địch. Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy, chi bộ xã do đồng chí Nguyễn Thị Kính làm Bí thư đã vận động nhân dân đào đường, phá trục lộ, góp phần cùng các xã lân cận cô lập chi khu quân sự địch. Bên cạnh đó, chi bộ Bình Hoà Bắc phối hợp với các xã láng giềng tổ chức nhiều cuộc biểu tình của nhân dân, đấu tranh trực diện với địch tại chi khu Quéo Ba, liên tục gây sức ép với địch cho đến khi huyện Đức Huệ hoàn toàn được giải phóng lần 2 vào cuối năm 1964.
Trong thời kỳ đấu tranh chống lại quá trình gom dân, lập ấp chiến lược của địch trên địa bàn xã, vai trò của quần chúng hết sức quan trọng. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ và vận động của đoàn thể, nhân dân Bình Hoà Bắc quyết tâm không vào ấp chiến lược. Khi bọn địch dùng vũ lực ép buộc thì người dân tìm mọi cách trốn về, gây cho địch nhiều tổn thất trong thời kỳ bình định cấp tốc. Trên thực tế, xã Bình Hoà Bắc địch chỉ lập được duy nhất 01 ấp chiến lược tại ấp Chánh. Với quyết tâm không cho địch gom dân lập ấp chiến lược trên địa bàn xã, quân dân Bình Hoà Bắc góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt”của Mỹ-ngụy, phát triển phong trào chiến tranh du kích và phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, giải phóng xã nhà và góp phần giải phóng huyện Đức Huệ.
4.Trong phong trào toàn dân đánh giặc, tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1965-1968)
Sau khi thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, nhằm cứu vãn khả năng sụp đổ của chính quyền tay sai, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và gây chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng lực lượng không quân và hải quân. Để thực hiện chiến lược trên, Mỹ triển khai một loạt công tác chuẩn bị từ đầu năm 1965 và thực thi vào giữa năm 1965. Đến cuối năm 1965, số quân viễn chinh Mỹ và chư hầu ở miền Nam Việt Nam đã lên đến 184.000 tên. Cuộc phản công chiến lược lần nhất vào mùa khô 1965-1966 của quân Mỹ được sự hỗ trợ tối đa của hoả lực, chủ yếu đánh vào 2 vùng: miền Đông Nam bộ và chiến trường Khu 5. Tỉnh Long An nằm trong tầm phản công chiến lược của địch.
Tháng 12-1965, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lịch sử để bàn về đường lối, chủ trương đánh Mỹ. Trên cơ sở phân tích những mặt mạnh và mặt yếu của địch, Hội nghị Trung ương đã khẳng định:“Ta hoàn toàn có khả năng đánh Mỹ và thắng Mỹ...”. Quán triệt chủ trương trên, Tỉnh uỷ Long An nhận định“Quân Mỹ đã và đang ồ ạt nhảy vào miền Nam... Việc quân Mỹ đến chiến trường Long An chỉ còn là vấn đề thời gian”. Chính vì thế, việc xác định quyết tâm đánh Mỹ và chuẩn bị đánh Mỹ như thế nào được đặt ra hết sức khẩn trương. Một trong những vấn đề quan trọng là vận động toàn dân tham gia đánh Mỹ, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân được đặt lên hàng đầu. Chấp hành sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Tỉnh đội Long An, Huyện ủy, Huyện đội Đức Huệ củng cố lực lượng, sắp xếp tổ chức, bố trí thế trận chiến tranh nhân dân, sẵn sàng tham gia đánh Mỹ, thông báo cho các địa phương chuẩn bị đối phó khi địch đưa quân càn quét vào địa bàn các xã của huyện Đức Huệ.
Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Đức Huệ, chi bộ xã được củng cố về tổ chức.Đồng chí Đỗ Thành Cao làm Bí thư.Từ năm 1965 đến 1967, đồng chí Nguyễn Văn A - Xã đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Mộng- Xã đội phó, đồng chí Bùi Văn Khánh- Chính trị viên xã đội. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, lực lượng vũ trang Bình Hoà Bắc sẵn sàng tham gia cùng bộ đội chính quy đối phó với quân Mỹ khi chúng đổ quân càn quét xuống địa bàn Bình Hoà Bắc.
Ngày 01-01-1966, Lữ đoàn dù 173 của Mỹ tiến hành càn quét vào vùng Đức Hoà, Đức Huệ. Lần đầu tiên người dân Bình Hoà Bắc chứng kiến cuộc đổ quân của quân viễn chinh Mỹ. Chúng dùng trên 50 trực thăng đổ quân xuống ấp An Hoà, quân số trên 01 tiểu đoàn. Khi địch đổ quân xuống không ngờ ngay khu vực đóng quân của Tiểu đoàn 267 (Quân khu 8). Đã chuẩn bị đối phó, lực lượng ta lập tức tiến công địch, chúng bị chận đánh khi vừa đổ quân xuống, quân ta hạ 5 trực thăng, tiêu diệt 10 tên lính Mỹ tại ấp An Hoà, ta hy sinh 01 chiến sĩ. Ngay sau đó, quân Mỹ đóng quân tại ngọn rạch Bần (ấp An Hoà) trong 3 ngày. Hàng ngày, chúng đưa quân càn quét vào ấp Hoà Tây và địa bàn xã Bình Hoà Nam, Bình Thành...Đi đến đâu, chúng đốt, phá nhà cửa, hủy hoại hoa màu. Nhân dân Bình Hoà Bắc và các xã lân cận đã được thông báo từ trước nên lánh ra vùng bưng, trấp an toàn, tránh các cuộc càn quét của địch.
Sau khi quân Mỹ rút đi, ngụy quân đưa quân đến đóng đồn trên địa bàn xã.Tại đồn kinh Xáng (ấp Chánh), chúng đóng 01 đại đội do tên Một Liên chỉ huy. Ngoài ra, còn có lực lượng dân vệ hỗ trợ, bọn chúng đưa quân càn quét, lùng bắt cán bộ, đảng viên và du kích, làm cho phong trào cách mạng của xã ngày càng khó khăn.Trước tình hình đó, cán bộ, đảng viên, lực lượng du kích và những cơ sở nòng cốt vẫn bám trụ địa bàn đánh địch. Khi lính Mỹ càn quét, chúng thả nhiều loại bom, vũ khí các loại. Tận dụng bom, đạn, pháo lép của địch, du kích tổ chức xản xuất vũ khí tự tạo đánh địch. Nhiều hình thức đánh Mỹ-ngụy như hầm chông, mìn, lựu đạn...được du kích xã và ngay cả du kích ấp cũng tham gia.Thời gian này, Xã đội trưởng là đồng chí Nguyễn Văn A, Ấp đội trưởng Hoà Tây là đồng chí Phạm Văn Khương, Ấp đội trưởng An Hoà là đồng chí Nguyễn Văn Nhựt. Lực lượng du kích xã, ấp phối hợp với bộ đội chính quy tận dụng mọi điều kiện, lợi dụng địa hình, làm tiêu hao sinh lực địch với hình thái chiến tranh du kích, làm cho quân Mỹ ngày càng hoang hoang, không phát hiện Việt cộng nơi nào mà quân số ngày càng hao tổn...
Ngày 10-01-1967, Sư đoàn 25 Mỹ với biệt danh “Tia chớp nhiệt đới” càn quét vào 2 xã Bình Hoà Bắc và Bình Hoà Nam. Bọn chúng vấp phải chông, mìn, lựu đạn...làm cho tinh thần lính Mỹ hoang mang tột độ. Với hình thái chiến tranh du kích, hình thức đánh Mỹ đa dạng, bọn Mỹ không thể hình dung đâu là Việt cộng, đâu là dân thường.Trong hồi ký của một tên lính Mỹ sau các cuộc hành quân trên địa bàn Đức Huệ có đoạn:“Đơn vị tôi tiến đến vùng dọc theo sông Vàm Cỏ Đông thuộc Đức Huệ nhiều lần, khi đụng độ với Việt cộng, có nhiều thương vong, vì đôi bên bắn nhau và mìn treo...”
Tháng 11-1966, Mỹ thành lập "Đồn Biệt kích" kinh Xáng với lực lượng 01 Tiểu đoàn biệt kích do tên thiếu tá tiểu đoàn trưởng Nguyễn Chiêu Minh chỉ huy.Tên thiếu tá Minh khét tiếng ác ôn, lúc nào cũng mang bên mình khẩu súng ngắn và một cây búa. Hắn giết người rất dã man và tàn bạo: đập đầu, mổ bụng, moi gan...Tiểu đoàn biệt kích này do Mỹ trực tiếp huấn luyện, với lực lượng hùng hậu gồm 6 đại đội. Đại đội thám sát do tên Lê Văn Nhỏ chỉ huy, đại đội 376 do tên Ngô Văn Cứ chỉ huy, đại đội 377 do tên Lê Văn Phước chỉ huy, đại đội 380 do tên Lê Vĩnh Nghi chỉ huy, đại đội 382 do tên Cao Hoàng Sang chỉ huy. Lực lượng biệt kích ngày đêm xua quân càn quét, bắn phá vùng căn cứ của ta khắp địa bàn các xã phía Bắc của huyện Đức Huệ. Đến giửa năm 1967, Mỹ bổ sung thêm 01 Giang đoàn Hải quân (gồm 03 tàu lớn và một số tàu nhỏ)đóng cạnh đồn biệt kích kinh Xáng để hổ trợ các cuộc càn quét. Đây là đồn biệt kích lớn thứ 2 sau Khu quân sự Quéo Ba của địch trên địa bàn Đức Huệ. Mục đích của Mỹ-ngụy đóng đồn nơi đây để khống chế cả khu vực rộng lớn của sông Vàm Cỏ Đông, nhằm bảo vệ tỉnh lỵ Hậu Nghĩa và án ngự phía Tây Sài Gòn. Với sự càn quét liên tục của bọn biệt kích đồn kinh Xáng, phong trào cách mạng tại Bình Hoà Bắc gặp nhiều khó khăn, một số cán bộ, đảng viên, du kích phải thường xuyên ở hầm bí mật. Ban đêm mới bung ra hoạt động, nhưng cũng chỉ tổ chức các cuộc họp củng cố cơ sở, hướng dẫn quần chúng tăng cường hầm bí mật, chuẩn bị lương thực, thực phẩm để đối phó với những cuộc càn quét dài ngày của địch.
Tháng 11-1967, bộ đội địa phương Đức Huệ phối hợp cùng du kích xã tập kích tiêu diệt 01 đại đội biệt kích Mỹ tại ấp An Hoà, xã Bình Hoà Bắc.
Mùa khô năm 1967, quân Mỹ tổ chức cuộc phản công chiến lược lần 2 vơi quy mô gấp đôi lần thứ nhất. Quân số chúng sử dụng lên đến 395.000 tên, chúng tập trung vào chiến trường miền Đông Nam bộ, trong đó có tỉnh Long An và tỉnh Hậu Nghĩa.Trên địa bàn Đức Huệ, lực lượng Lữ đoàn 2 của Sư đoàn 25 Mỹ liên tục càn quét, chúng đưa quân đánh sâu vào vùng căn cứ của ta, làm cho phong trào cách mạng địa phương gặp nhiều tổn thất. Tại Bình Hoà Bắc, vào tháng 05-1967, quân Mỹ đóng chốt tại ấp Hoà Tây đến 7 ngày. Hàng ngày, chúng đưa quân càn quét, bắn phá, đốt nhà, huỷ hoại địa hình, làm cho nhân dân không thể bám trụ được nữa mà phải di chuyển đến những nơi khác.
Từ năm 1965, do địch càn quét dữ dội, một số người dân ở Bình Hoà Bắc đã phải di cư đến Hiệp Hoà, một số người có người thân ở thành phố thì về Sài Gòn, một số người dân phải chạy qua vùng Ba Thu-biên giới Việt Nam-Campuchia để sinh sống. Đến giữa năm 1967, khi quân Mỹ đóng chốt tại Hoà Tây, càn quét liên tục thì hầu hết người dân Bình Hoà Bắc không ở được nữa, họ đành kéo nhau lên vùng biên giới Việt Nam-Campuchia để sinh sống. Một số người di chuyển đến nhiều nơi để mưu sinh bởi bom đạn của kẻ thù ngày đêm giội xuống vùng đất Bình Hòa Bắc. Giai đoạn này, xã Bình Hoà Bắc chỉ còn lại lực lượng cán bộ, đảng viên và du kích cùng một số cơ sở nòng cốt bám trụ. Đồng chí Lê Thành Công-Chi ủy viên,Quyền bí thư xã, đồng chí Nguyễn Văn Đực và đồng chí Phạm Văn Khương là xã đội phó. Lực lượng du kích xã còn lại khiêm tốn. Hoạt động chủ yếu giai đoạn này là phối hợp cùng bộ đội địa phương, bộ đội chính quy tổ chức chống càn, đánh càn làm tiêu hao sinh lực địch. Cuối năm 1967, du kích xã phối hợp cùng bộ đội địa phương, chống càn tại ấp An Hoà, làm thiệt hại cả tiểu đội địch (lính biệt kích đồn kinh Xáng), về phía ta 02 đồng chí hy sinh (01 bộ đội, 01 du kích).
Trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, khi quân Mỹ với trang bị vũ khí tối tân, tiến hành đánh phá xã Bình Hoà Bắc với mục đích biến nơi đây thành “vùng trắng” thì hầu như người dân nơi đây phải di chuyển đến vùng biên giới.Thế nhưng, cán bộ, đảng viên và lực lượng du kích xã vẫn bám trụ địa bàn, dù cho quân Mỹ có dội xuống mãnh đất này bao nhiêu tấn bom, đạn, người chiến sĩ cách mạng không sờn lòng. Chính vì tinh thần bám đất, “một tấc không đi, một li không rời”cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân Bình Hoà Bắc được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tặng Huân chương Hạng III về thành tích “Bám đất giữ làng” năm 1966.
Hành động xâm lược của Mỹ ở Việt Nam ngày càng bị thế giới lên án vì tiến hành cuộc chiến tranh phi nghĩa, dùng sức mạnh quân sự xâm chiếm và can thiệp vào nội bộ của nước khác. Nhân dân Việt Nam trên dưới một lòng, quyết tâm chiến đấu đến cùng vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những thắng lợi liên tiếp của quân ta trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao đã góp phần làm phá sản âm mưu của Mỹ - ngụy, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi mới.
Trên cơ sở đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 (tháng 01-1968) đi đến quyết định lịch sử là chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới- thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Nghị quyết chỉ rõ:“Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nổ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp Tổng công kích-Tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”. Chuẩn bị cho chiến dịch Mậu Thân -1968, ngày 25-10-1967, Trung ương Cục tổ chức các khu trọng điểm thành 5 Phân khu theo năm hướng tiến công vào Sài Gòn và Phân khu nội đô (Phân Khu 6). Long An được phân làm Phân khu 2 và Phân khu 3.
Phân khu II gồm các huyện phía Bắc Lộ 4 (nay là Quốc lộ I) của Long An đó là Đức Hoà, Đức Huệ, Bến Lức, Thủ Thừa và các quận, huyện của Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định: quận 5, quận 6, quận 3, quận 2, Tân Bình, bắc Bình Chánh, vùng Phú Thọ Hoà, Tân Sơn Hoà (thuộc quận 10, quận 11 hiện nay). Nhiệm vụ của Phân khu II là tấn công vào các mục tiêu trọng yếu của địch tại Sài Gòn như sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu ngụy, Biệt khu thủ đô...Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân-1968, xã Bình Hoà Bắc nằm trong địa bàn tác chiến của Phân khu II.
Chuẩn bị cho chiến dịch Mậu Thân-1968, xã Bình Hoà Bắc củng cố về tổ chức và phân công lực lượng. Đồng chí Lê Thành Công làm Bí thư xã, đồng chí Nguyễn Văn Tới- xã đội trưởng, đồng chí Đặng Văn Nhầm-Chính trị viên, đồng chí Lê Văn Đền và đồng chí Phan Văn Lợp- xã đội phó.Các đồng chí Lê Thành Công, Trịnh Văn Khơi, Bảy Minh, Chín Diện, Năm Rạnh, Hai Tông…tập hợp về khu vực kinh Ngay ( thuộc ấp 2, xã Mỹ Thạnh Đông hiện nay) để vận động thành lập Ấp đội An Hoà làm nòng cốt đánh Mỹ. Ấp đội An Hoà gồm các đồng chí:Trương Văn Đực-Ấp đội trưởng, Nguyễn Văn Bon-Ấp đội phó cùng một số du kích như: Tư Râu, Chào, Lập, Vẳng, Bảy Sao và một số đồng chí khác. Sau khi thành lập, Ấp đội An Hoà được giao nhiệm vụ lên Ba Thu nhận “trái gài” về đánh địch. Ấp đội An Hoà triển khai gài trái để tiêu diệt biệt kích Mỹ thường đổ bộ hành quân trên địa bàn ấp An Hoà và một số khu vực khác, gây cho chúng nhiều thiệt hại.
Bên cạnh đó, chi bộ xã Bình Hoà Bắc khẩn trương vận động người dân từ biên giới trở về, tuyển quân nhập ngũ phục vụ chiến dịch. Dưới sự vận động của các đồng chí trong chi bộ, gần 100 dân công hoả tuyến không ngại gian khó, hăng hái tham gia vận chuyển một khối lượng lớn vũ khí từ biên giới về địa bàn xã Bình Hoà Bắc.Và từ đây, các đoàn dân công khác tiếp tục đưa xuống chiến trường đánh địch.Cũng trong chiến dịch này, thanh niên từ vùng biên giới trở về tham gia vào du kích. Tham gia chiến dịch Mậu Thân-1968, du kích xã Bình Hoà Bắc có cả 01 trung đội (khoảng 36-40 chiến sĩ) Ngoài ra, chi bộ xã còn tuyển chọn 01 trung đội dân công thường xuyên tham gia tải đạn từ biên giới xuống chiến trường và từ chiến trường, tải thương, thuốc men (chủ yếu thuốc Tây) về căn cứ Ba Thu. Trong quá trình tải đạn, tải thương, các đồng chí trong Ấp đội An Hoà là lực lượng nòng cốt cho phong trào này, góp phần không nhỏ trong chiến dịch Mậu Thân-1968. Thông thường, mỗi đợt đi khoảng 01 tuần lễ, cũng có đợt cả tháng để tránh sự càn quét của địch. Điều đặc biệt là những dân công hoả tuyến hầu như tự túc vấn đề lương thực, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong quá trình phục vụ, không ngại gian nguy.Tuy không tham gia trực tiếp chiến đấu tại chiến trường, nhưng quân dân Bình Hoà Bắc đã góp phần cho quá trình chuẩn bị vũ khí, đạn dược để bộ đội chiến đấu, đó là những đóng góp thầm lặng cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thận-1968.
Đợt 1 của chiến dịch Mậu Thân- 1968 kết thúc tuy không đạt mục tiêu đã đề ra, nhưng theo sự chỉ đạo chiến lược của ta thì đây là một quá trình, sẽ tấn công vào Sài Gòn đến khi nào giành thắng lợi.
Đợt 2 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân-1968, trên địa bàn huyện Đức Huệ, Phân khu ủy và Bộ Tư lệnh Phân khu II đã chỉ đạo lực lượng vũ trang tấn công Đồn biệt kích kinh Xáng tại ấp Chánh, xã Bình Hoà Bắc.Tiểu đoàn 16 và tiểu đoàn 267 B được lệnh tham gia đánh trận này. Ngoài ra, tham gia trận đánh đồn kinh Xáng còn có lực lượng của bộ đội địa phương Đức Huệ và du kích xã Bình Hoà Bắc. Đặc biệt, trận đánh trên còn có sự tham gia của hàng trăm dân công xã Bình Hoà Bắc, phục vụ cho việc vận chuyển vũ khí, đạn được, đưa chuyển thương binh ra vùng an toàn trong và sau trận đánh. Sau thời gian nghiên cứu tình hình địch, đêm 19 rạng 20-4-1968, quân ta tấn công căn cứ biệt kích kinh Xáng. Lúc đầu, địch bất ngờ vì vậy tiểu đoàn 16 tiến vô được một phần của căn cứ. Bọn địch bị ta tiêu diệt khá nhiều, trong đó có tên thiếu tá tiểu đoàn trưởng Nguyễn Chiêu Minh bị trúng đạn, hư một con mắt. Riêng tiểu đoàn 267 B gặp khó khăn vì địch kịp điều động lực lượng cứu viện như phi cơ, pháo binh và hải quân tiếp ứng. Do lực lượng địch quá mạnh, quân ta không dứt điểm được trận địa, không trụ lâu được đành phải rút về vị trí an toàn. Địch dùng các loại pháo, máy bay ném bom chặn đường rút quân của ta, hàng chục chiến sĩ , dân công hy sinh và bị thương. Trong mưa bom bão đạn, những đồng chí làm công tác tải thương không sờn lòng,cùng du kích và dân công thông thạo địa bàn, quyết tâm đưa những thương binh, liệt sĩ về vùng an toàn. Do địch pháo kích dữ dội, ta phải chôn cất anh em liệt sĩ chung vào một nơi. Tuy không tiêu diệt được đồn biệt kích kinh Xáng nhưng trận đánh trên làm cho địch vô cùng hoang mang, chúng không dám đưa quân càn quét vào địa bàn xã và những địa phương khác như trước.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân-1968 tuy không đạt được mục tiêu như kế hoạch đề ra nhưng đã giáng những đòn mạnh mẽ vào trung tâm đầu não của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, tạo điều kiện thuận lợi về mặt chính trị, quân sự và ngoại giao cho các cuộc đàm phán sau này. Chiến dịch Mậu Thân-1968 đã ghi nhận sự hy sinh to lớn của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và đồng bào vì sự nghiệp giải phóng miền Nam.Tại xã Bình Hoà Bắc, nhiều cán bộ, chiến sĩ hy sinh: Trịnh Văn Khơi (Trưởng An ninh xã), Nguyễn Văn Minh (thư ký Bí thư xã), Nguyễn Văn Xã (du kích), Huỳnh Văn Đủ (du kích), Nguyễn Văn Nề (du kích) và một số dân công.
Tháng 11-1968, du kích Bình Hoà Bắc phối hợp với du kích Mỹ Thạnh Đông và bộ đội địa phương Đức Huệ tổ chức chống càn tại Kinh Ngay (Mỹ Thạnh Đông). Đồng chí Phan Văn Lợp-Xã đội phó chỉ huy cánh quân Bình Hoà Bắc đã diệt được 7 tên địch, thu nhiều vũ khí. Sau chiến dịch Mậu Thân-1968, Mỹ -ngụy tăng cường lực lượng đàn áp phong trào cách mạng. Chúng liên tục càn quét, bắn phá hòng đẩy lùi quân giải phóng ra khỏi vùng ven của Sài Gòn.
Có thể nói, khi quân Mỹ đặt chân lên vùng đất Bình Hoà Bắc, quân dân địa phương nói riêng và Đức Huệ nói chung phải đối đầu với kẻ thù xâm lược hiếu chiến, được trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại nhất lúc bấy giờ. Đây là thời kỳ chiến đấu đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh.Với tinh thần yêu nước, căm thù giặc cao độ, quân và dân Bình Hoà Bắc đã quyết tâm chiến đấu, đóng góp công sức, xương máu của mình trên mọi mặt trận để đánh địch, nhất là trong công tác phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân-1968. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, nhân dân Bình Hoà Bắc không ngại gian nguy, đã hăng hái tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực từ biên giới xuống chiến trường; đồng thời trực tiếp tham gia chiến đấu, đóng góp công sức, máu xương cho quá trình giải phóng quê hương, thống nhất đất nước. Nhiều bà mẹ, chị em tự nguyện nấu xôi, gói bánh bồi dưỡng cho bộ đội, cho đoàn dân công. Thanh niên trong xã tự nguyện vào du kích, đăng ký tòng quân tham gia bộ đội chính quy để giết giặc lập công. Có thể nói sự đóng góp của Đảng bộ và nhân dân Bình Hoà Bắc trong thời kỳ chống phá chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ-ngụy và đặc biệt là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân-1968 rất đáng trân trọng, là niềm tự hào của địa phương trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
5. Trong thời kỳ chống phá "Bình định", vượt qua khó khăn thử thách (1969-1972)
Cuối năm 1968, đế quốc Mỹ chủ trương “phi Mỹ hóa” bằng chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" với phương châm "dùng người Việt đánh người Việt". Thực hiện chiến lược trên, Mỹ rút dần quân viễn chinh và quân chư hầu về nước đồng thời tăng cường viện trợ kinh tế cho ngụy quyền Sài Gòn, tập trung tối đa về quân số và trang thiết bị quân sự hiện đại cho quân đội ngụy đủ mạnh để đối phó với lực lượng cách mạng. Sau chiến dịch Mậu Thân-1968, địch liên tục ném bom, bắn phá, hành quân càn quét bằng bộ binh, tàu chiến vào địa bàn Bình Hoà Bắc để thi hành kế hoạch “Bình định cấp tốc”. Chúng tập trung quân Mỹ, quân ngụy và mọi phương tiện chiến tranh hiện đại nhất từ phi pháo đến B52 ném bom rải thảm, không kể ngày đêm đánh phá rất ác liệt. Chúng tăng cường bắn giết trâu bò, phá hoại địa hình để không còn nơi bám trụ của cán bộ, đảng viên và du kích. Mục đích của chúng là cô lập lực lượng cách mạng còn bám lại địa bàn xã, biến xã thành vùng trắng và ngăn chặn nhân dân trở về ruộng vườn cũ, hòng tách rời nhân dân ra khỏi lực lượng cách mạng. Thủ đoạn thâm độc của địch đã làm cho cán bộ, đảng viên, du kích và phong trào cách mạng địa phương đứng trước thử thách không nhỏ.
Trước tình hình đó, Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo các lực lượng Phân khu kiên trì bám trụ vùng ven, chờ thời cơ tiếp tục tấn công Sài Gòn. Đây là thời kỳ đầy khó khăn, thử thách của cách mạng miền Nam nói chung và tại Bình Hoà Bắc nói riêng. Thời gian này, địch tăng cường lực lượng càn quét để thi hành chương trình Bình định xây dựng-bước đầu tiên của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Đến đầu năm 1969, hầu như trên địa bàn xã không còn người dân sinh sống. Bám trụ địa bàn lúc bấy giờ chỉ còn cán bộ, đảng viên và lực lượng du kích. Đầu năm 1969, xã Bình Hoà Bắc chỉ còn 4 đảng viên do đồng chí Đặng Văn Nhầm làm Bí thư. Du kích xã chỉ còn gần 01 trung đội (khoảng 20 chiến sĩ) do đồng chí Lê Văn Đền làm xã đội trưởng. Đến tháng 9 năm 1969, xã Bình Hoà Bắc chỉ còn 3 đảng viên đó là Huỳnh Văn Tính, Mai Thành Luận, Mai Thành Ớn, đồng chí Huỳnh Văn Tính làm Bí thư. Giai đoạn này, địch kiểm soát gần hết địa bàn của xã. Cán bộ, du kích chỉ hoạt động vào ban đêm, chủ yếu là củng cố lực lượng, phối hợp cùng bộ đội chống càn, tổ chức gài trái làm tiêu hao sinh lực địch.
Trước tình hình khủng hoảng trầm trọng về lực lượng, chi bộ xã chủ trương củng cố lực lượng an ninh, du kích để làm nhiệm vụ diệt ác, phá kềm, tạo điều kiện cho nhân dân trở về quê cũ làm ăn, sinh sống. Lực lượng du kích xã chỉ còn khoảng 1/3 so với thời điểm trước chiến dịch Mậu Thân -1968, nhưng các chiến sĩ vẫn kiên cường bám trụ địa hình, tiếp tục tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch. Tháng 07-1969, du kích xã gài lựu đạn khu vực ấp Hoà Tây, địch ở đồn biệt kích kinh Xáng càn vào địa hình chiến đấu của ta, làm chết 15 tên. Ngoài việc gài trái đánh địch, du kích xã còn hướng dẫn cho bộ đội chống càn, tập kích địch. Tháng 04-1969, được sự hỗ trợ của du kích xã và bộ đội địa phương Đức Huệ, lực lượng vũ trang của tỉnh (Tiểu đoàn 1) sử dụng các loại pháo với hoả lực mạnh (H12 và DKZ) pháo kích vào đồn biệt kích kinh Xáng, tiêu diệt gần hết bọn địch đóng nơi đây. Với tính chất quan trọng của khu vực này, chỉ thời gian ngắn, địch tiếp tục đưa quân đóng lại đồn kinh Xáng.
Đối với đồng bào vùng biên giới, tuy không còn sinh sống trên địa bàn xã nhưng họ vẫn tìm cách tiếp tế lương thực, thực phẩm cho cán bộ, đảng viên và du kích bám trụ địa bàn. Tuy nhiên, dần dần bọn địch cũng phát hiện vì vậy cán bộ, đảng viên và du kích bám trụ địa bàn “ tự lực cánh sinh” là chính. Có thể nói đây là thời kỳ vô cùng khó khăn, thử thách đối với phong trào cách mạng của địa phương. Lòng yêu nước, nhiệt huyết cách mạng và ý chí căm thù giặc sâu sắc đã thôi thúc họ kiên trì bám trụ, quyết tâm chiến đấu đến cùng.
Tháng 06-1970, Mỹ rút quân khỏi chiến trường Đức Hòa, Đức Huệ nhưng lại tăng cường thêm quân ngụy có cố vấn Mỹ chỉ huy. Trên địa bàn xã Bình Hoà Bắc, Tiểu đoàn 64 của ngụy đóng quân tại đồn kinh Xáng-Trà Cú. Bọn chúng ngày đêm đưa quân càn quét, tìm cách tiêu diệt lực lượng cán bộ, đảng viên và du kích. Đến tháng 07 năm 1970, đồng chí Huỳnh Văn Tính bị địch bắt, xã chỉ còn 2 đảng viên là Mai Thành Luận và Mai Thành Ớn, vì vậy liên kết với xã Bình Thành thành lập Liên chi bộ Bình Thành-Bình Hoà Bắc. Liên chi bộ do đồng chí Trần Văn Truyền làm Bí thư kiêm xã đội trưởng. Trong giai đoạn này, Liên chi bộ 2 xã tập trung củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng là chính. Bên cạnh đó, Chi bộ liên xã còn chỉ đạo lực lượng du kích tiếp tục gài trái làm tiêu hao sinh lực địch.
Trên các chiến trường lớn, quân ngụy bị quân giải phóng đánh tan tác ở nam Lào và đông bắc Cam-pu-chia. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”của Mỹ đứng trước nguy cơ bị phá sản hoàn toàn, vùng giải phóng đang mở rộng trên phạm vi toàn miền Nam. Thời cơ mới đang mở ra để giải phóng miền Nam. Tháng 8-1971, Trung ương Cục và Quân ủy Miền đề ra kế hoạch tấn công chiến lược năm 1972 nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, đánh bại chương trình bình định, thu hẹp vùng kiểm soát của địch, giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trên chiến trường, tạo thế mới trên mặt trận chính trị và ngoại giao. Phối hợp với toàn miền, Phân khu ủy và Bộ Tư lệnh Phân khu 23 mở đợt tiến công tạo thế mới với chiến dịch “Chồm lên”.
Trong chiến dịch “Chồm lên” năm 1972, hòa chung với thế tấn công trên toàn miền, du kích liên xã Bình Thành-Bình Hoà Bắc phối hợp cùng bộ đội địa phương Đức Huệ chặn đánh những toán quân càn quét của địch, đồng thời sử dụng vũ khí tự tạo và chiến thuật bắn tỉa bao vây đồn kinh Xáng, làm bọn địch ở nơi đây co cụm lại, hạn chế đáng kể hoạt động càn quét của chúng. Cũng trong giai đoạn này, Liên chi bộ Bình Thành-Bình Hoà Bắc đã vận động nhân dân từ vùng biên giới và các nơi khác trở về ruộng, vườn cũ để sinh sống, sản xuất. Họ cất chòi ở tạm để sản xuất, khi địch càn quét, họ tạm lánh vào những khu vực an toàn, sau đó trở lại tiếp tục sản xuất, ủng hộ kháng chiến.
Nhìn chung, sau chiến dịch Mậu Thân cho đến trước khi Hiệp định Paris được ký kết (1969-1972) là thời kỳ khó khăn, thử thách nhất đối với quân và dân Bình Hoà Bắc. Thủ đoạn đàn áp, khủng bố khốc liệt của kẻ thù đã biến địa bàn Bình Hoà Bắc thành vùng trắng. Người dân hầu như không còn sinh sống trên địa bàn xã, chỉ còn lại cán bộ, đảng viên và lực lượng du kích bám trụ. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của chi bộ, nhân dân Bình Hoà Bắc từng bước đã vượt qua khó khăn, thử thách, tổ chức những trận chống càn làm tiêu hao sinh lực địch.
6. Tham gia đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Pa-ri, tiến tới giải phóng quê hương (1973-1975)
Sang năm 1972, trên bình diện chung, Mỹ-ngụy hứng chịu những thất bại nặng nề cả về quân sự, chính trị và ngoại giao, nhiều sư đoàn chủ lực bị tiêu diệt trên các chiến trường trọng điểm, làn sóng chống chiến tranh dâng cao trên toàn thế giới và ngay trong lòng nước Mỹ. Tình hình trên buộc đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán ở Paris, thái độ nghiêm chỉnh hơn để tiến dần đến một bản hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ của nhân dân Việt Nam được nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới ủng hộ, được các nước xã hội chủ nghĩa anh em nhất là Liên Xô và Trung Quốc giúp đỡ về tài lực, vật lực để tiếp tục kháng chiến.
Với những lợi thế từ chiến trường lớn, phong trào cách mạng xã Bình Hoà Bắc có nhiều chuyển biến mau lẹ. Một bộ phận nhân dân vùng biên giới đã tìm cách trở về ruộng, vườn cũ để sản xuất và sinh sống.Trước sự chuyển biến tích cực, đầu năm 1973, Liên chi bộ Bình Thành - Bình Hoà Bắc được tách ra, chi bộ xã Bình Hoà Bắc do đồng chí Võ Bá Đương-cán bộ huyện được tăng cường, đồng chí Nguyễn Văn Tiền-xã đội trưởng, đồng chí Mai Thành Ớn-trưởng công an, đồng chí Mai Thành Luận- phụ trách kinh tế, tài chánh. Lúc này, Bình Hoà Bắc cũng được tăng cường 01 đảng viên là đồng chí Lê Thị Giót-phụ trách Phụ nữ xã.
Những thắng lợi liên tiếp của quân ta về cả chính trị, quân sự và đặc biệt là về mặt ngoại giao đã buộc Mỹ-ngụy vào thế bị động, đành ngồi vào bàn đàm phán và chính thức ký kết Hiệp định Pa-ri vào ngày 27-01-1973. Tuy nhiên, Mỹ-ngụy không dễ dàng chấp nhận thất bại.Trước khi rút quân về nước, Mỹ đổ vào miền Nam rất nhiều tiền bạc, vũ khí để tiếp sức cho quân đội ngụy đủ mạnh, đứng vững và đối phó với lực lượng quân giải phóng. Chính quyền Sài Gòn quyết liệt phản đối hiệp định Paris vì bọn chúng thấy nguy cơ bị Mỹ bỏ rơi bất cứ lúc nào. Địch vạch kế hoạch “Hùng Vương”, chủ động tấn công trước và sau Hiệp định Paris bằng các biện pháp cụ thể như càn quét, bình định khắp lãnh thổ, ngăn không cho quân giải phóng thêm một vùng nào.Đây là kế hoạch lợi dụng Hiệp định để lấn chiếm, giành đất, giành dân.Tại Bình Hoà Bắc, địch tăng cường kiểm soát, khuyến dụ nhân dân: không nghe, không làm theo lời xúi giục của cộng sản, tôn trọng luật pháp quốc gia...qua các cuộc học tập trung mà chúng gọi là “chính thể quốc gia”. Địch còn mở chiến dịch sơn cờ, treo cờ quốc gia (cờ ba sọc).
Về phía ta, Trung ương Đảng chỉ thị cho miền Nam nhanh chóng tăng cường lực lượng để đón thời cơ chiến lược do Hiệp định Paris tạo ra. Nhiệm vụ của địa phương là tích cực giành dân và giành đất trước khi Hiệp định có hiệu lực. Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Trung ương Cục và Khu ủy Khu 8, Tỉnh ủy Long An chỉ thị các lực lượng triển khai thực hiện “kế hoạch thời cơ”. Thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy, ngay trong đêm 27 rạng 28-01-1973, chi bộ Bình Hoà Bắc do đồng chí Võ Bá Đương làm bí thư đã tổ chức và lãnh đạo các lực lượng cắm cờ Mặt trận khắp nơi trong xã. Sáng 28-01-1973, địch bắn pháo và càn quét vào địa bàn xã để nhổ cờ do lực lượng cách mạng đã cắm. Địch nhổ, ta lại cắm, cứ thế tình hình diễn biến giằng co cả tháng trời trên địa bàn Bình Hoà Bắc. Kế hoạch phá hoại Hiệp định với nhiều thủ đoạn, trong đó quá trình lấn đất, giành dân của địch hoàn toàn thất bại.
Ngày 13-05-1973, địch đưa quân vào khu vực Hội đồng Sầm để càn quét, phá hoại hiệp định một cách trắng trợn. Tại đây, bộ đội tỉnh kết hợp với bộ đội địa phương và du kích xã tổ chức đánh càn làm thiệt hại nặng tiểu đoàn địa phương quân 303 của địch, làm cho chúng hoảng loạn, hạn chế quá trình càn quét.
Thất bại trên mặt trận chiến tranh tâm lý, địch sử dụng sức mạnh quân sự với quyết tâm ngăn cản và phá hoại Hiệp định Paris. Ở vùng hành lang Đức Huệ-Thủ Thừa, trong đó có xã Bình Hoà Bắc, địch đưa trung đoàn 10 (sư đoàn 7) và tiểu đoàn 338 địa phương quân đánh phá ráo riết. Tuy nhiên, chúng vấp phải sự kháng cự của bộ đội tỉnh, bộ đội địa phương và du kích xã. Bên cạnh đó, nhân dân trở về quê cũ sinh sống ngày càng đông, tiếp tục ủng hộ cách mạng làm cho địch gặp nhiều trở ngại, vùng giải phóng của ta ngày càng được mở rộng.
Tháng 07-1973, chi bộ Bình Hoà Bắc còn 7 đồng chí: Đặng Văn Nhầm (Bí thư), Mai Thành Luận(Phó bí thư), Võ Văn Rôn (xã đội trưởng),Trần Dân Quân (xã đội phó), Nguyễn Văn Rành(xã đội phó), Lê Thị Giót (cán bộ Tuyên giáo), Lê Văn Tôn (phụ trách kinh tài). Nhiệm vụ của chi bộ giai đọan này là vận động nhân dân bám đất sản xuất, về quê cũ sinh sống. Nhân dân trở về ngày càng nhiều, nhất là địa bàn ấp Hòa Tây, ấp An Hòa. Đối phó với phong trào trở về quê cũ của nhân dân, bọn địch quyết tâm cản trở và phá hoại. Chúng dùng vũ lực quân sự thúc ép người dân đưa về ấp Chánh và dựng lên bộ máy tề làng. Mặc khác, âm mưu thâm độc hơn là bọn chúng cho xây dựng hệ thống đồn, bót dọc theo ranh giới của xã nhằm ngăn chặn quân ta từ biên giới tiến quân về. Tuy nhiên, với những thắng lợi liên tiếp từ các chiến trường trọng điểm, địch không sao thực hiện được ý đồ, làn sóng người dân đấu tranh phản đối cùng với sự rã ngũ của binh lính ngụy làm cho hệ thống của địch ngày càng lung lay, bế tắc.
Cuối năm 1973, sau khi tiếp thu tinh thần Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng và Nghị quyết 12 của Trung ương Cục, Tỉnh ủy Long An ra Nghị quyết với nội dung chính là phát huy mạnh mẽ khả năng của 3 thứ quân, đánh mạnh, đều khắp và liên tục để tiêu hao sinh lực địch, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị, binh vận trên cơ sở pháp lý của Hiệp định.
Đầu năm 1974, thực hiện tinh thần chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy Đức Huệ đề nghị các chi bộ tập trung củng cố lực lượng du kích, tăng cường hoạt động vũ trang, chính trị và binh vận, sẵn sàng giải phóng quê hương khi thời cơ đến. Sau khi đồng chí Đặng Văn Nhầm hy sinh (tháng 06-1974), chi bộ xã lúc này do đồng chí Phùng Văn Kiêu làm bí thư, đảng viên của xã gồm 7 đồng chí. Từ năm 1973 đến tháng 06 năm 1974, lực lượng du kích xã gồm 01 tiểu đội do đồng chí Võ Văn Rôn làm xã đội trưởng.Từ tháng 07-1974 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, lực lượng du kích xã gồm 01 trung đội do đồng chí Trần Dân Quân làm xã đội trưởng.
Từ năm 1974 cho đến ngày 30-4-1975, chi bộ vận động nhân dân từ vùng biên giới trở về quê cũ làm ăn, sinh sống. Phân nữa người dân Bình Hoà Bắc đã trở về quê cất nhà, tham gia sản xuất, một bộ phận người dân trở về quê cũ sản xuất nhưng nhà cửa vẫn ở tạm vùng biên giới. Cho đến trước ngày giải phóng miền Nam (30-4), Bình Hoà Bắc đã xây dựng được 01 trường học gồm 2 giáo viên và khoảng 50 học sinh bậc tiểu học (thời điểm này hầu như cả vùng Đức Huệ chưa có xã nào xây dựng trường học). Điều đó nói lên tinh thần xây dựng quê hương, chăm lo cho thế hệ tương lai của chi bộ và nhân dân Bình Hoà Bắc sau những năm chiến tranh tàn phá.
Cuối năm 1974, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình và thời cơ chiến lược, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976. Đầu 1975, quân giải phóng đánh tan quân địch trên địa bàn Phước Long. Đây là sự kiện nổi bật, thể hiện sức mạnh của quân ta khi giải phóng hoàn toàn địa bàn tỉnh. Với lợi thế to lớn đó, Bộ Chính trị quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Những thắng lợi liên tiếp của quân ta trong các chiến địch lớn như chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế-Đà Nẳng đã làm cho địch ngày càng hoang mang, suy yếu. Trước sức mạnh như vũ bảo của lực lượng cách mạng, Mỹ- ngụy co cụm lại và cố thủ để bảo vệ Sài Gòn. Với những chiến thắng quan trọng từ các chiến trường trọng điểm, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh để giải phóng Sài Gòn-sào huyệt cuối cùng của địch. Trong chiến dịch này, Long An có 02 nhiệm vụ quan trọng là phục vụ chiến đấu cùng lực lượng chủ lực Miền, tham gia tiến công trực tiếp vào Sài Gòn từ hướng Tây Nam; đồng thời tự giải phóng tỉnh nhà theo phương châm “ xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”. Trên tinh thần ấy, Huyện ủy Đức Huệ ráo riết chỉ đạo các xã tập trung mọi lực lượng phục vụ chiến đấu và chuẩn bị giải phóng toàn huyện.
Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy, chi bộ huy động nhân dân tham gia vào lực lượng dân công hỏa tuyến với nhiệm vụ tiếp đạn, tải lương cho tiền tuyến và vận chuyển thương binh về tuyến sau. Hàng trăm dân công Bình Hoà Bắc tải đạn, đưa bộ đội qua sông Vàm Cỏ Đông để tiến quân về Sài Gòn. Với nhiều hình thức vận chuyển vũ khí, nhân dân Bình Hoà Bắc sử dụng cả những chiếc xe bò để tải đạn, kịp thời phục vụ chiến dịch. Lực lượng du kích ngày đêm hướng dẫn đường đi cho bộ đội, trực tiếp chiến đấu khi có sự hỗ trợ và phối hợp của bộ đội tỉnh, bộ đội huyện. Bình Hoà Bắc từng là căn cứ kháng chiến vì vậy địa bàn xã là nơi tập kết, trú đóng cho bộ đội trước khi hành quân chiến đấu. Nhân dân Bình Hoà Bắc mặc dù vừa mới trở về quê hương, còn khó khăn, thiếu thốn nhưng đã hết lòng tiếp tế lương thực, thực phẩm, thuốc men...phục vụ bộ đội, phục vụ cho quá trình giải phóng quê hương.
Với sức ép về quân sự và sự bao vây cô lập của quân dân Bình Hoà Bắc, bọn địch đóng tại đồn kinh Xáng vô cùng hoảng sợ, bọn chúng chỉ co cụm, không dám ra ngoài. Ngày 28-04-1975, quân ta tấn công giải phóng quận lỵ Đức Huệ, các đồn địch trên địa bàn huyện đều bị xoá sạch.Tuy nhiên, đồn kinh Xáng của địch trên địa bàn xã Bình Hoà Bắc vẫn còn. Lúc này bọn địch tại đồn đã bị cắt đứt mọi nguồn tiếp tế cũng như hệ thống liên lạc bị phá vỡ hoàn toàn.
Đêm 29-04-1975, lực lượng ta gồm 3 trung đội của 3 xã Bình Hoà Bắc, Bình Hoà Nam, Bình Thành kết hợp tấn công đồn kinh Xáng. Lực lượng Bình Hoà Bắc với điều kiện thuận lợi đã tiến công đồn địch đầu tiên, bọn địch trong đồn chống cự yếu ớt, một số bỏ chạy, một số đầu hàng, một số bị bắt làm tù binh. Khi lực lượng của Bình Hoà Nam và Bình Thành tiến quân đến thì cơ bản đồn kinh Xáng đã bị ta phá tan, toàn bộ xã Bình Hoà Bắc được giải phóng trong niềm hân hoan, phấn khởi vô cùng của cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân toàn xã.
Đêm 30-04-1975, chi bộ tổ chức mít-tinh tại ấp Chánh mừng ngày quê hương được giải phóng, đất nước thống nhất, Bắc-Nam sum họp một nhà. Chưa có bao giờ nhân dân Bình Hoà Bắc lại vui như thế. Sau bao năm chiến tranh tàn phá nặng nề, nhân dân phải ly hương vì bom đạn của kẻ thù dội xuống mãnh đất Bình Hoà Bắc ngày càng dữ dội.Ngày quê hương giải phóng cũng là ngày vui sum họp của nhiều gia đình, bà con, làng xóm. Mọi người tay bắt mặt mừng, nhìn nhau không nói nên lời.
Sáng 01-05-1975, tại khu Hội đồng Sầm,Ủy ban Quân quản của xã Bình Hoà Bắc được thành lập gồm các đồng chí:
-Nguyễn Văn Cậy- Chủ tịch
-Mai Thành Luận - Phó chủ tịch
-Lê Văn Mỹ- Trưởng công an
-Trần Văn Quân-Xã đội trưởng
-Đặng Văn Đón-Phụ trách Tuyên giáo
-Lê Văn Tài -Phụ trách Tài chánh
-Lê Văn Đức -Phụ trách Thanh niên
-Trương Minh Thệ - Phụ trách Nông hội
Là một trong những địa bàn chiến tranh ác liệt, Bình Hoà Bắc hứng chịu biết bao bom đạn của kẻ thù, quân dân nơi đây vẫn kiên gan bền chí, chịu đựng nhiều gian khổ, hy sinh...Trong thời kỳ đánh Mỹ, diệt ngụy, được sự hỗ trợ của lực lượng trên và sự nỗ lực của địa phương, quân dân Bình Hoà Bắc lập nên nhiều chiến công oanh liệt.Với những thành tích nổi bật trong kháng chiến chống Mỹ, quân dân Bình Hoà Bắc được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (ngày 22-8-1998).
Trải qua 21 năm đấu tranh kiên cường, bền bĩ, chịu đựng nhiều hy sinh, gian khổ, cuối cùng ngày giải phóng quê hương, thống nhất đất nước đã đến với quân dân Bình Hoà Bắc trong niềm vui khôn tả. Trong sự thắng lợi to lớn đó, vai trò của các đồng chí lãnh đạo, cán bộ, đảng viên là rất quan trọng. Với những ý kiến chỉ đạo của cấp trên, các đồng chí bí thư, cán bộ, đảng viên đã vận dụng một cách sáng tạo, sâu sát, uyển chuyển phù hợp với tình hình của địa phương, góp phần quan trọng cho tinh thần đấu tranh của quần chúng trong những thời kỳ địch khủng bố ác liệt nhất. Đặc biệt, dù khó khăn gian khổ đến đâu, dù có lúc phải rời khỏi địa bàn xã nhưng các đồng chí lãnh đạo vẫn thường xuyên hướng dẫn quần chúng đấu tranh, duy trì phong trào cách mạng xã nhà. Cho đến khi nhân dân vì không chịu nỗi bom đạn của kẻ thù, đành phải ly hương thì những đồng chí lãnh đạo, cán bộ, đảng viên, du kích vẫn kiên gan, bền chí bám trụ địa bàn, quyết tâm kháng chiến đến cùng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc..
Là vùng căn cứ kháng chiến từ sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ-1940, trong 9 năm trường kỳ chống Pháp cho đến xuyên suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Bình Hoà Bắc là mục tiêu đánh phá ác liệt của địch, vai trò lãnh đạo của chi bộ Đảng hết sức quan trọng. Nếu không có bản lĩnh chính trị vững vàng, không thể hiện đường lối chỉ đạo sáng suốt, không kiên trì bám trụ trong những lúc khó khăn nhất sẽ làm cho quần chúng mất niềm tin vào cách mạng. Chính vì vậy, trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào, các đồng chí lãnh đạo vẫn bám sát quần chúng, đề ra những nhiệm vụ kịp thời, sẵn sàng đối phó với âm mưu của địch. Có thể nói trong suốt thời kỳ chống Mỹ xâm lược, tùy theo từng thời kỳ, khi địch mạnh ta yếu, khi ta mạnh địch yếu... các đồng chí lãnh đạo địa phương đã có những chỉ đạo kịp thời, đúng đắn, góp phần quan trọng làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của địch trên địa bàn xã.
Trong niềm hân hoan chào đón thắng lợi của xã nhà được giải phóng, không thể không kể đến sự đóng góp to lớn và hy sinh của lực lượng vũ trang- du kích Bình Hoà Bắc. Đây là những chiến sĩ trực tiếp cầm súng chiến đấu chống giặc ngay trên mãnh đất quê hương.Với lực lượng hạn chế về quân số, trang bị vũ khí thiếu thốn, nhưng lực lượng vũ trang xã nhà phối hợp với lực lượng của trên chiến đấu hàng chục trận, tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, trong đó có cả quân viễn chinh Mỹ. Sự mưu trí, gan dạ và hy sinh của lực lượng vũ trang Bình Hoà Bắc mãi mãi là niềm tự hào của địa phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược.
Thắng lợi to lớn của quân dân xã nhà trong sự nghiệp giải phóng quê hương phải kể đến vai trò của đoàn thể, đặc biệt là phụ nữ Bình Hoà Bắc. Đây là lực lượng đã giữ một vai trò rất quan trọng, đóng góp xứng đáng vào công cuộc giải phóng quê hương, thống nhất đất nước.Các mẹ, các chị đã không quản khó nhọc, lao động nuôi sống gia đình, phục vụ cách mạng và “đóng góp, hy sinh” cho đất nước: chồng, con- những người thân yêu nhất của mình. Có mẹ, có chị phải mang thương tật suốt đời dưới làn roi tra tấn tàn bạo, bom đạn của địch; hoặc một số người mãi mãi ra đi không còn được mừng ngày giải phóng. Đó là những mất mát không gì bù đắp được đối với những người đã vì nước quên mình.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ đi đến thắng lợi trọn vẹn không thể không nói đến vai trò cực kỳ quan trọng của nhân dân Bình Hoà Bắc nhất là các cơ sở cách mạng.“Khó vạn lần dân liệu cũng xong” đó chính là hành trang mà nhân dân Bình Hoà Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng, biết vượt khó khăn, gian khổ, hy sinh, sẳn sàng phục vụ cách mạng. Mặc dù có đôi lúc phải rời khỏi nơi “chôn rao cắt rốn” vì bom đạn của kẻ thù nhưng người dân nơi đây vẫn một lòng một dạ với cách mạng, sẵn sàng bảo vệ, cưu mang các đồng chí lãnh đạo, cán bộ, đảng viên, du kích trong những lúc kẻ thù khủng bố, càn quét điên cuồng nhất. Chính nhân dân Bình Hoà Bắc đã góp phần rất lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi vẻ vang.
Truyền thống yêu nước chống ngoại xâm và tinh thần đoàn kết toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã tạo nên một sức mạnh vô địch, góp phần vào thắng lợi chung của cả dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hoà bình, độc lập, thống nhất là món quà vô giá mà nhân dân Việt Nam trong đó có nhân dân Bình Hoà Bắc xứng đáng được tặng thưởng và giữ gìn.
Chương IV
BÌNH HOÀ BẮC TRONG THỜI KỲ
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN (1975-2005)
I. THỜI KỲ ĐẦU SAU NGÀY GIẢI PHÓNG (1975-1985)
1. Khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới, củng cố chính quyền nhân dân, ổn định trật tự xã hội:
Sau bao năm chiến tranh tàn phá, ngày vui đất nước đã được thống nhất, mọi người hân hoan, phấn khởi, cùng bắt tay nhau ổn định cuộc sống mới mặc dù gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Sau khi Ủy ban quân quản giải thể, đầu tháng 6-1975, chính quyền nhân dân được thành lập để ổn định cuộc sống và giữ gìn trật tự xã hội, khắc phục hậu quả chiến tranh, lãnh đạo nhân dân xây dựng cuộc sống mới, xã hội mới.
Hậu quả của chiến tranh để lại rất nặng nề trên quê hương Bình Hoà Bắc. Trên địa bàn xã chỉ còn vài chục ngôi nhà tranh vách đất, hầu như đồng ruộng bị bỏ hoang, khắp nơi còn in loang lỗ những hố bom, bãi đạn. Đời sống người dân còn nhiều khó khăn. Mặc khác, nổi đau vẫn còn trong lòng nhiều người vì những mất mát không có gì bù đắp được bởi những năm tháng chiến tranh đã cướp đi những người thân yêu nhất, những người chồng, người con hy sinh vì sự ngiệp giải phóng quê hương.
Nhân dân Bình Hoà Bắc đa số sinh sống bằng nghề nông vì vậy việc đồng ruộng bị bỏ hoang hàng chục năm đã cho năng suất thấp, điều kiện và phương tiện sản suất còn nghèo nàn, lạc hậu. Đời sống vật chất khốn khó ít nhiều ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự xã hội. Nạn trộm, cướp xuất hiện nhiều nơi làm cho địa phương thêm rối ren, phức tạp. Một số phần tử phản động được các thế lực thù địch kích động đã tuyên truyền, nói xấu chế độ, bịa đặt, vu khống cán bộ,đảng viên, làm mất niềm tin trong quần chúng nhân dân.Trước những khó khăn cấp bách, việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng là hết sức cần thiết. Nếu không kịp thời làm tốt công tác này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tiếp nhận các chủ trương, chính sách của Đảng ta trong quá trình xây dựng con người mới, xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Trước những thách thức, khó khăn đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy và chính quyền, nhân dân Bình Hoà Bắc phát huy truyền thống chống ngoại xâm của thế hệ ông, cha, tinh thần đoàn kết mọi tầng lớp, quyết tâm vượt qua những trở ngại, đã được được những thành tựu rất đáng trân trọng :
Khắc phục hậu quả chiến tranh:
Sau chiến tranh, xã Bình Hoà Bắc có hàng chục sĩ quan, binh sĩ của ngụy quyền cần phải rà soát, sàng lọc để cải tạo, giáo dục. Những tên nào còn ngoan cố, trốn tránh thì lực lượng công an, xã đội, dân quân kiên quyết đưa ra trình diện. Vấn đề đưa đi cải tạo và giáo dục sĩ quan, binh sĩ ngụy được thực hiện nghiêm khắc. Đảng ủy và chính quyền vận động những gia đình có con em từng đi lính dưới chế độ ngụy tự giác đến trình diện. Tuỳ theo đối tượng mà chính quyền đưa đi cải tạo lâu dài hoặc chỉ giáo dục tại địa phương. Với những phần tử phản động, ngoan cố, lực lượng công an sẵn sàng trấn áp, tuỳ theo mức độ vi phạm mà có hình thức xử lý thích đáng.
Chiến tranh để lại trên quê hương Bình Hoà Bắc vô số bom, mìn, lựu đạn..., chính quyền vận động toàn thể nhân dân thu gom, tháo gở đưa về một nơi để quản lý và có kế hoạch tiêu hủy. Đây là công việc khó khăn, nhận thức của người dân là chính, tránh xảy ra tình trạng cất giấu hoặc sự cố phát nỗ gây thiệt mạng cho nhân dân. Sau giải phóng, vẫn còn một bộ phận nhân dân chưa trở về quê hương bởi nhiều nguyên nhân khách quan, vì vậy chính quyền kêu gọi và tổ chức cho những đồng bào còn ly hương trở về quê cũ, khai hoang phục hoá, từng bước ổn định cuộc sống mới.Công tác này gặp không ít khó khăn vì đa số họ có cuộc sống ổn định nơi đất khách trong thời gian chiến tranh, nay trở về quê hương làm xáo trộn cuộc sống.Vì vậy, vấn đề này là một trong những thách thức của Đảng ủy và chính quyền trong quá trình ổn định cuộc sống của một bộ phận người dân sau chiến tranh.
Trong những năm chiến tranh, phần lớn đồng ruộng bị bỏ hoang, khôi phục sản xuất là vấn đề cấp thiết để ổn định đời sống. Mặc dù điều kiện còn khó khăn nhưng người dân Bình Hoà Bắc tích cực bắt tay vào sản xuất, khai hoang. Nhân dân các ấp An Hoà, Hoà Tây trở lại nghề nông truyền thống, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Một bộ phận nông dân ven sông Vàm Cỏ Đông khôi phục lại nghề trồng mía.Tuy gặp không ít trở ngại trong sản xuất, nhưng với niềm vui quê hương được giải phóng, mọi người hăng say lao động, quyết tâm xây dựng cuộc sống mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy và chính quyền, người dân từng bước ổn định, nhà cửa được xây dựng lại, hệ thống giao thông được tu sửa, trường học được xây dựng và củng cố, mọi mặt đời sống-xã hội dần đi vào nề nếp.
Ổn định trật tự xã hội, củng cố bộ máy lãnh đạo địa phương:
Sau ngày giải phóng, mặc dù lực lượng an ninh, xã đội, dân quân đã đưa phần lớn những sĩ quan, binh sĩ ngụy ra trình diện, đưa đi cải tạo và giáo dục nhưng vẫn còn một số tên ngoan cố tìm cách lẫn trốn, đồng thời âm mưu phá hoại thành quả cách mạng. Trước tình hình đó, được sự hỗ trợ của quần chúng, lực lượng an ninh của xã bí mật theo dõi và bắt ngay những phần tử phản động, tuỳ theo hình thức phạm tội mà xử lý theo pháp luật hiện hành. Sau giải phóng, một số tên phản động được sự hậu thuẩn của các thế lực thù địch bên ngoài, tìm cách phá hoại chế độ mới. Xã Bình Hoà Bắc có một số tên từng là lính ngụy đã tìm cách trốn khỏi địa phương, có ý định tham gia những tổ chức phản động này. Hành động của chúng bị nhân dân phát hiện, báo cho lực lượng an ninh địa phương bắt giữ, giáo dục,cảnh cáo, nếu tái phạm sẽ bị trừng trị đích đáng. Dẹp yên nạn phá rối, làm mất trật tự, an ninh xã hội là một trong những thành công của lãnh đạo xã Bình Hoà Bắc khi quê hương vừa sạch bóng quân thù.
Đất nước thống nhất, việc tổng tuyển cử bầu quốc hội chung cả nước là nhu cầu hết sức cấp bách, đáp ứng nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân khắp mọi miền đất nước.Tháng 04-1976, cuộc bầu cử quốc hội diễn ra từ Bắc đến Nam được nhân dân cả nước ủng hộ nhiệt liệt.Tại xã Bình Hoà Bắc, dưới sự vận động của chính quyền và các đoàn thể, hầu như tất cả nhân dân trong xã đều tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, thể hiện quyền và nghĩa vụ công dân của một nước độc lập, chủ quyền và thống nhất.
Đầu năm 1976, theo chỉ đạo cấp trên, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời được thành lập. Đồng chí Mai Thành Luận làm Bí thư kiêm Chủ tịch. Sau khi đồng chí Mai Thành Luận về lãnh đạo huyện, Chi bộ và chính quyền cách mạng chỉ định đồng chí Đinh Thị Khuyên làm Chủ tịch UBND cách mạng lâm thời. Đến tháng 05-1977, Hội đồng nhân dân xã hợp phiên đầu tiên, bầu ra các chức danh Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Lê Văn Đức được bầu làm Chủ tịch.
Ủy ban nhân dân xã quản lý mọi mặt đời sống-xã hội thông qua các Ban, ngành, đoàn thể và hệ thống các Trưởng ấp. Từ đó, bộ máy lãnh đạo địa phương ngày càng được kiện toàn, củng cố và quản lý xã hội đi vào lề lối.Trên cơ sở đó, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước được phổ biến sâu rộng trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Ủy ban nhân dân chuẩn bị kế hoạch bước đầu đào tạo đội ngũ cán bộ xã, đáp ứng nhu cầu giải quyết công việc và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân về các vấn đề liên quan đến đời sống-xã hội.
Tham gia chiến đấu bảo vệ biên cương Tổ quốc trong chiến tranh biên giới Tây Nam
Là một trong những xã giáp vùng biên giới Việt Nam-Campuchia, Bình Hoà Bắc gặp không ít khó khăn trong quá trình giữ vững an ninh-quốc phòng trên địa bàn xã. Sau ngày giải phóng, bọn phản động Khơ-me đỏ Campuchia đứng đầu là Pôn-Pốt luôn tìm cách phá hoại thành quả cách mạng Việt Nam, nhất là những huyện biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Chiến tranh biên giới Tây Nam gây ra đã giết hại rất nhiều thường dân vô tội, nhất là dọc biên giới Việt Nam-Campuchia. Là huyện biên giới phía Tây Nam của Việt Nam, Đức Huệ là một trong những địa phương chịu nhiều thiệt hại do chiến tranh. Nhiều người dân vô tội bị giết hại, súc vật bị chúng bắn giết, nhà cửa, ruộng vườn, hoa màu bị chúng đốt phá. Xã Bình Hoà Bắc không tránh khỏi những mất mát, đau thương tang tóc của chiến tranh. Vừa chiến đấu bảo vệ biên cương, vừa thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Bình Hoà Bắc quyết tâm xây dựng và bảo vệ quê hương. Hàng trăm thanh niên đã lên đường nhập ngũ, trong số đó, có nhiều người đã anh dũng hy sinh để góp phần đánh bại âm mưu lấn chiếm biên giới của các thế lực thù địch, hòng phá hoại công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta. Nhân dân Bình Hoà Bắc còn cưu mang, giúp đỡ đồng bào Campuchia sang lánh nạn diệt chủng. Thanh niên trong xã tham gia quân đội, góp phần thực hiện nghĩa vụ quốc tế ở nước bạn suốt 10 năm(1979-1989).Dù trải qua gian khó, nhân dân Bình Hoà Bắc chung vai sát cánh cùng với nhân dân các xã biên giới quyết tâm chiến đấu bảo vệ quê hương, bảo vệ thành quả cách mạng. Suốt 10 năm ròng rã, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bình Hoà Bắc ra sức bảo vệ,xây dựng quê hương và góp phần cùng nhân dân tỉnh nhà bảo vệ biên giới vững chắc trong chiến tranh biên giới Tây Nam.
Nhìn chung, sau ngày giải phóng, xã Bình Hoà Bắc đã từng bước vượt qua khó khăn, thử thách, khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định cuộc sống về mọi mặt. Đó là những cố gắng vượt bậc của toàn thể Đảng bộ,chính quyền và nhân dân Bình Hoà Bắc, quyết tâm xây dựng cuộc sống mới, giữ vững trật tự xã hội, góp phần cùng cả nước xây dựng lại quê hương sau chiến tranh.
2. Bước đầu khôi phục kinh tế, xây dựng xã hội mới, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội
*Kinh tế: Từ sau ngày giải phóng cho đến năm 1985, trải qua 10 năm xây dựng quê hương, xã Bình Hoà Bắc đã đạt được những thành tựu cơ bản.
Nông nghiệp:
Sau 10 năm khôi phục sản xuất, diện tích đất nông nghiệp của xã đã tăng đáng kể. Với diện tích tự nhiên là 3.640 hecta (ha) thì diện tích sản xuất nông nghiệp chiếm 1.348 ha. Trong đó, diện tích trồng lúa là 400 ha, diện tích còn lại sản xuất các loại cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày như đậu phộng, miá, bàng, khoai, dừa, điều, bạch đàn, tràm...Trong quá trình sản xuất, đã có những đổi mới cơ bản là từng bước xoá bỏ phương thức sản xuất độc canh. Nếu như trước giải phóng, nông dân chỉ sản xuất lúa 01 vụ lúa và trồng mía là chủ yếu thì sau 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nông thôn Bình Hoà Bắc đã có những nơi sản xuất 2 vụ lúa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đặc biệt, tuỳ theo điều kiện thổ nhưởng của từng vùng mà người dân đã đưa nhiều loại cây trồng ngắn ngày và dài ngày thích hợp để đạt năng suất cao hơn. Với việc áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất và lai tạo giống lúa mới, một số tập đoàn sản xuất của ấp An Hoà (ven sông Vàm Cỏ Đông) đưa năng suất lúa cao sản đạt từ 4-5 tấn/ ha. Bên cạnh đó, một số loại cây ngắn ngày như đậu phộng, khoai, mía...được bà con áp dụng vào sản xuất ở những vùng đất thích hợp như ấp Hoà Tây, ấp Tân Hoà (đậu phộng), những ấp ven sông Vàm Cỏ Đông (cây mía, cây dừa). Riêng diện tích trồng bàng trên toàn xã vào thời điểm năm 1985 có đến 168 ha. Giai đoạn này, nghề đan đệm bàng ở Long An nói chung và tại Đức Huệ nói riêng phát triển cực thịnh. Những sản phẩm như đệm bàng, giỏ bàng, nón bàng, các loại bao bì...không những tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Đối với các loại cây công nghiệp dài ngày như cây điều, cây tràm,cây bạch đàn...được đưa vào những vùng đất phèn,chua thuộc ấp Chánh, một phần ấp Tân Hoà đã góp phần mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Trong 10 năm sau ngày giải phóng, chăn nuôi gia súc, gia cầm của người dân được cải thiện đáng kể. Đến năm 1985, toàn xã có trên 1.600 con trâu, bò; khoảng 1.500 con heo. Riêng gia cầm (gà, vịt) có trên 5.000 con, tập trung nhiều nhất vùng đất giồng (An Hoà, Hoà Tây).
Trong mối quan hệ sản xuất, việc làm ăn cá thể đã được thay thế bằng phương thức sản xuất tập thể, cụ thể là các tập đoàn sản xuất. Từ năm 1979-1985, toàn xã Bình Hoà Bắc có 38 tập đoàn sản xuất nông nghiệp, cơ bản là sản xuất lúa nước (37 TĐSX nông nghiệp-trồng luá), chỉ có 1 tập đoàn sản xuất, khai thác và tiêu thụ sản phẩm nghề đan đệm bàng truyền thống. Đây là phương thức sản xuất mới, cần những người lãnh đạo tập đoàn có năng lực, có tâm huyết và nắm bắt được nguyện vọng của nhân dân vì vậy Đảng ủy và chính quyền chủ trương đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý tập đoàn. Đến năm 1985, xã Bình Hoà Bắc đã đào tạo được 36 cán bộ quản lý tập đoàn (tập đoàn trưởng).
Gần 10 năm sản xuất theo phương thức tập thể, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp ở Bình Hoà Bắc đạt được những thành quả đáng kể. Năng suất nâng cao, mọi người hăng say lao động, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất tương đối rộng rãi.Tuy nhiên, việc sản xuất tập thể cũng có những hạn chế nhất định, đó là chưa thực hiện triệt để tập thể hoá ruộng đất, còn giao khoán ruộng ai nấy làm, hàng năm không điều chỉnh lại ruộng đất cho hợp lý đối với tình hình phát triển và gia tăng dân số, làm cho sự phân bố lao động không hợp lý.Vấn đề phân chia đất đai trong tập đoàn còn nhiều bất cập, đã xảy ra tranh chấp, thưa kiện về đất đai của các tập đoàn viên. Về cơ bản các trường hợp khiếu kiện đều được giải quyết thấu tình đạt lý, chỉ còn một vài trường hợp đặc biệt là chủ nhân sở hữu ruộng đất đã bỏ đi xa quê quá lâu, nay trở về đòi lại, gây khó khăn cho chính quyền trong việc tìm đất mới cấp phát cho những người đang trực tiếp sản xuất của tập đoàn.
Một vấn đề trở ngại khá lớn trong sản xuất nông nghiệp là tình trạng quản lý tập đoàn còn nhiều yếu kém, thiếu quan tâm về tư tưởng của người lao động. Đáng báo động là có một số đảng viên có thái độ thoả mãn, từ đó tập đoàn sản xuất ngày càng sa sút về chất lẫn về lượng. Vấn đề quyền lợi và nghĩa vụ của tập đoàn viên còn nhiều bất cập, một số hộ gây chia rẽ, thậm chí một số hộ làm đơn xin rút ra khỏi tập đoàn làm cho tình hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã gặp không ít trở ngại.
Công tác xóa bỏ tàn dư phong kiến, ruộng đất nằm trong địa chủ, phú nông cơ bản không còn, việc điều chỉnh ruộng đất ở xã cho đến năm 1985 đã hoàn thành về cơ bản. Đảng ủy, chính quyền đã vận động địa chủ, phú nông, trung nông đưa hàng trăm hecta đất để chia cho hàng trăm hộ nông dân không có ruộng hoặc thiếu ruộng canh tác, tạo sự phấn khởi và đoàn kết trong các tầng lớp nhân dân. Việc địa chủ bóc lột nông dân thông qua chế độ thuế hà khắc cũng được bãi bỏ. Qua công tác xóa bỏ bóc lột và điều chỉnh lại ruộng đất, niềm tin của nhân dân đối với Đảng được nâng lên, mọi người đoàn kết, ra sức lao động, góp phần vào quá trình xây dựng xã hội mới, con người mới.
Tiếp thu tinh thần chỉ thị số 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, các tập đoàn sản xuất làm ăn tương đối có hiệu quả. Là một trong những xã đi đầu trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở Đức Huệ, Bình Hoà Bắc gặt hái được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, do hình thức tập đoàn sản xuất còn mới, trình độ và năng lực quản lý tập đoàn của cán bộ còn hạn chế, lực lượng sản xuất địa phương chưa có kinh nghiệm nên ít nhiều xảy ra những mâu thuẩn trong quản lý và phân chia sản phẩm. Bên cạnh đó, hợp tác hoá nông nghiệp còn nặng về hình thức, phương pháp phân phối cào bằng nên dẫn đến sự đình trệ, khó khăn, gây mất niềm tin trong nhân dân. Vì thế, một thời gian sau, các tập đoàn sản xuất tự động tan rã, ruộng đất được giao khoán về hộ gia đình để tự tổ chức sản xuất.
Nhìn chung, 10 năm đầu tiên sau ngày giải phóng, nông nghiệp cơ bản đã khắc phục được sự hoang hoá, diện tích khai hoang được mở rộng. Phương thức sản xuất tập thể bước đầu đã định hình và mang lại hiệu quả năng suất tăng cao, lai tạo giống luá mới, phá bỏ phương thức sản xuất cá thể.Thông qua các tập đoàn sản xuất, mọi người cùng có trách nhiệm với nhau, cuộc sống người nông dân dần dần ổn định và bước đầu có tích lủy. Tuy nhiên, sau chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, việc tiếp cận phương thức sản xuất tập thể ít nhiều còn bỡ ngỡ, xảy ra một số vấn đề tranh chấp đất đai, quyền lợi của người dân chưa được giải quyết dứt điểm, làm cho người dân ít nhiều bị xao động. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy và chính quyền, mọi khó khăn, vướng mắc dần dần được giải quyết và khắc phục.
Tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và nghề thủ công truyền thống:
Đến năm 1985, xã Bình Hoà Bắc hiện có 6 cơ sở xay xát và 5 lò đường thủ công. Tất cả đều do tư nhân quản lý, kịp thời phục vụ nhu cầu của nhân dân trong xã về việc tiêu thụ và chế biến lương thực, thực phẩm.
Về công tác cải tạo công thương nghiệp, cho đến năm 1985, đã quản lý tốt các cơ sở sản xuất đường thủ công, xay xát gạo, chống mua gian, bán lận, chống đầu cơ, tích trữ, cho vay nặng lãi... Hợp tác xã mua bán được thành lập và ngày càng phát huy vai trò tích cực trong việc phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân. Hợp tác xã mua bán ra đời, cung cấp vật tư nông nghiệp cho nông dân nhưng số lượng còn hạn chế, không đảm bảo nhu cầu người dân. Giai đoạn này, hầu như tất cả các mặt hàng tiêu dùng đều do nhà nước cung cấp, phân phối vì vậy khi đến tay người dân còn khiêm tốn, không đủ nhu cầu sử dụng. Nhìn chung, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp giai đoạn này vẫn còn ở trình độ sản xuất nhỏ, lạc hậu, manh mún, hợp tác xã chưa phát huy hết vai trò phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, việc trao đổi, mua bán lệ thuộc chặt chẻ vào sự quản lý với chế độ bao cấp, kìm hảm sự phát triển trong vấn đề sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Các nghề thủ công truyền thống như đan đệm bàng được phục hồi và phát triển. Thời kỳ này, xã Bình Hoà Bắc với diện tích bàng tự nhiên khá lớn (168 hecta) đã tạo công ăn việc làm cho hàng trăm nông dân và dân nghèo (chủ yếu vùng đất bưng thuộc ấp Chánh, ấp Tân Hoà ).Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, nghề thủ công truyền thống đan đệm bàng rất thịnh hành ở Long An và một số huyện có nguyên liệu và nghề đan đệm, trong đó có xã Bình Hoà Bắc của huyện Đức Huệ. Sản phẩm của nghề đan đệm không những tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Xã Bình Hoà Bắc với ưu thế phong phú về nguyên liệu (cây bàng tự nhiên) đã trở thành một trong những địa phương có nghề đan đệm bàng phát triển, cuộc sống của người dân theo nghề truyền thống này ngày càng ổn định so với trước.Ngoài việc cung cấp nguyên liệu đan đệm bàng cho địa phương, xã Bình Hoà Bắc còn cung cấp nguyên liệu liệu cho một số địa phương khác trong tỉnh.
Hệ thống giao thông và thủy lợi:
Được sự quan tâm và hỗ trợ của các ngành, các cấp từ tỉnh, huyện nên hệ thống giao thông liên ấp, liên xã được củng cố và mở rộng. Cho đến năm 1985, Đảng ủy và chính quyền xã đã huy động hàng chục ngàn ngày công lao động công ích trong nhân dân, xây dựng nhiều tuyến đường liên ấp, đặc biệt là xây dựng tuyến đường bộ liên xã từ Bình Hoà Bắc đến Bình Hoà Nam.Từ sau giải phóng cho đến 1985, với nguồn kinh phí của huyện, của xã và sự đóng góp công sức của nhân dân, đã xây dựng được 20 cây cầu lớn, vừa, nhỏ bắc qua kinh, rạch (chủ yếu bằng gỗ) với tổng chiều dài các cầu lên đến 400 m.Tuy nhiên, với hậu quả của chiến tranh để lại nặng nề, các tuyến đường giao thông trong xã chỉ được gia cố là chính, chỉ mở thêm một số tuyến đường mới, vẫn sử dụng những con đường đã có từ trước.
Công tác thủy lợi được mở rộng, mạng lưới kinh, rạch của xã kéo dài trên 10 km, chủ yếu thuộc điạ bàn ấp Hoà Tây và Tân Hoà. Việc nạo vét kinh nội đồng đảm bảo thường xuyên, phục vụ các vụ luá đông xuân và hè thu. Bên cạnh đó, công tác thủy lợi còn giải quyết vấn đề nước ngọt sinh hoạt cho người dân và nhu cầu sản xuất...Đối với xã Bình Hoà Bắc,việc cung cấp nước ngọt phục vụ đời sống nhân dân là sự cố gắng rất lớn của Đảng ủy, chính quyền trong vấn đề phục vụ nhu cầu đời sống nhân dân.
*Về văn hoá-xã hội:
Sau 10 năm xây dựng, diện mạo văn hoá-xã hội Bình Hoà Bắc đạt được những thành tựu quan trọng. Sau ngày giải phóng, tàn dư văn hoá cũ ít nhiều vẫn còn len lõi trong một bộ phận đời sống nhân dân. Nội dung của văn hoá cũ mang tính đồi trụy, phản động, ru ngũ thanh thiếu niên chạy theo cuộc sống phương Tây. Một số sách báo, tranh ảnh, một số nhạc phẩm mang nội dung trụy lạc, phản động, nói xấu chế độ...Trước tình trạng trên, việc bắt tay vào xây dựng một nền văn hóa mới lành mạnh, thể hiện tính Đảng, tính nhân dân, tính dân tộc là rất cần thiết. Để giải quyết vấn đề này, chính quyền mở chiến dịch thu gom sách, báo, tranh ảnh của chế độ cũ để quản lý và có cách xử lý thích hợp (tịch thu và thiêu hủy).Các khẩu hiệu phản động của chế độ cũ để lại cũng được tẩy xóa, thay thế vào đó hàng loạt khẩu hiệu cách mạng, kịp thời cổ động cho công tác tăng gia sản xuất, xây dựng nền văn hoá-xã hội mới.
Để kịp thời nhân rộng mô hình gia đình văn hoá mới trong toàn dân, chính quyền mở rộng mạng lưới thông tin, tuyên truyền đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và chính phủ, vận động bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan như bói toán, đồng bóng, những hủ tục trong ma chay, cưới hỏi...đồng thời xây dựng đời sống văn hoá mới trong nếp sống, sinh hoạt của người dân.Trong các lễ hội truyền thống ở địa phương, những hủ tục rườm rà đượm phần mê tín được bãi bỏ, thay vào đó là những nghi thức đơn giản, ít tốn kém nhưng vẫn giữ được giá trị truyền thống của dân tộc. Đảng ủy, chính quyền phát động phong trào toàn dân tham gia xây dựng đời sống văn hoá mới. Mọi người dân tích cực hưởng ứng. Ban văn hóa-thông tin được thành lập, từng ấp có một tổ thông tin thường xuyên hoạt động tuyên truyền, cổ động, kịp thời phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, tình hình kinh tế-xã hội của địa phương đến nhân dân.
Cho đến năm 1985, xã Bình Hoà Bắc đã thành lập được Đài truyền thanh và các tổ thông tin lưu động, kịp thời đưa các chủ trương, nghị quyết của Đảng về xây dựng đời sống văn hoá mới đến tận cơ sở. Phong trào văn nghệ của xã có nhiều khởi sắc. Đội văn nghệ thường xuyên tham gia hội diễn nghệ thuật quần chúng, đồng thời tổ chức các buổi văn nghệ phục vụ nhân dân trong các dịp lễ hội, ngày tết, các ngày lễ lớn của dân tộc. Bên cạnh đó, những dịp hội hè, cưới hỏi...tệ nạn cờ bạc, rượu chè bị nghiêm cấm, thay vào là các buổi biểu diễn văn nghệ, vừa làm cho ngày vui thêm phong phú về tinh thần và xoá bỏ những tệ nạn xã hội. Việc tổ chức cưới, hỏi theo hình thức mới với những lễ nghi đơn giản nhưng vẫn giữ được yếu tố truyền thống, xoá bỏ những hủ tục rườm rà, tốn kém...ngày càng được mọi người hưởng ứng, thực hiện.
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, xã Bình Hoà Bắc vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục trên lĩnh vực văn hóa- thông tin như: phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới chưa phát triển sâu rộng, còn mang tính hình thức. Người dân chưa thật sự nắm bắt và hiểu sâu rộng về tầm quan trọng của việc xây dựng đời sống văn hoá mới, một bộ phận người dân còn thờ ơ với phong trào này.Bên cạnh đó, hoạt động truyền thanh và thông tin cổ động nhằm phổ biến chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước còn hạn chế, chưa kịp thời phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương, chất lượng tin, bài chưa sâu do hạn chế về phương tiện kỹ thuật và trình độ hạn chế của đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác văn hoá-thông tin.
Sự nghiệp giáo dục sau 10 năm đạt được những thành tựu khả quan. Công tác cải cách giáo dục có nhiều chuyển biến, chất lượng giảng dạy được nâng cao, số học sinh chuyển cấp và tốt nghiệp trung học cơ sở mỗi năm một tăng. Cho đến năm 1985, toàn xã có 01 trường Trung học cơ sở(Cấp II), mỗi ấp đều có từ 1-2 trường Tiểu học (Cấp I) và đã có trường mầm non. Ngoài ra, Đảng ủy và chính quyền còn đặc biệt quan tâm đến việc mở lớp bổ túc văn hóa cho cán bộ, đảng viên, con em gia đình chính sách để đào tạo đội ngũ cán bộ kế thừa. Các lớp xóa mù chữ cho nhân dân được mở thường xuyên với mục tiêu chống tái mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học cho tất cả mọi người.Trong công tác giảng dạy, xuất hiện nhiều nhân tố mới, nhiều giáo viên đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua, giáo viên giỏi. Trong thời gian qua, có một số học sinh trung học cơ sở của xã tham gia các kỳ thi học sinh giỏi cấp huyện và cấp tỉnh. Nhìn chung, phong trào giáo dục của xã Bình Hoà Bắc đạt được nhiều thành quả quan trọng, tỉ lệ mù chữ của nhân dân trong xã ngày càng giảm dần. Đa số trẻ em trong độ tuổi đến trường đều được tham gia học tập.Tuy nhiên, do tình trạng thiếu giáo viên, thiếu phòng học cũng như trang thiết bị giảng dạy hầu như không có đã làm cho công tác đào tạo, giáo dục gặp không ít khó khăn, một số gia đình vì cuộc sống thiếu thốn nên con, em buộc phải nghĩ học, đó là một trong những vấn đề hạn chế của địa phương trong công tác giáo dục sau ngày giải phóng.
Công tác chăm sóc sức khoẻ cho người dân còn gặp nhiều khó khăn. Bình Hoà Bắc đã xây dựng Trạm Y tế nhưng chưa có bác sĩ, các y sĩ trình độ chuyên môn hạn chế trong công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân. Mãi đến năm 1983,Trạm Y tế xã tiếp nhận 01 y sĩ đã qua đào tạo về chuyên môn thường xuyên khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Trạm Y tế giai đoạn này còn thiếu thốn từ thuốc men đến phương tiện khám, chữa bệnh nên công tác chăm lo sức khoẻ người dân còn hạn chế. Mặt khác, công tác vận động nhân dân thực hiện ăn chín, uống sôi, xây dựng nhà vệ sinh, nhà tắm, hố rác và vệ sinh phòng dịch của cán bộ, nhân viên Y tế chưa đạt hiệu quả. Công tác vận động sinh đẻ có kế hoạch chưa được cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức được tầm quan trọng nên tỉ lệ phát triển dân số còn cao. Đây là những tồn tại của công tác khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân thời kỳ đầu xây dựng quê hương.
Công tác chăm lo đời sống và thực hiện chế độ chính sách -xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với nước được Đảng ủy, chính quyền quan tâm thực hiện từ rất sớm.Theo số liệu thống kê năm 1985, toàn xã có 167 liệt sĩ, 43 thương binh, bệnh binh hưu trí, mất sức. Bên cạnh việc thực hiện đúng chế độ chính sách do nhà nước quy định đối với thành phần trên, Đảng ủy, chính quyền còn cấp ruộng đất, hỗ trợ sửa chữa, xây cất nhà cửa cho các đối tượng hưởng chính sách, chế độ. Về công tác hậu phương -quân đội, Bình Hoà Bắc đã ưu tiên cấp ruộng đất cho hàng chục gia đình bộ đội tại ngũ, tạo điều kiện về công ăn, việc làm để các chiến sĩ an tâm hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Gia đình bộ đội xuất ngũ củng được chính quyền địa phương quan tâm đến nghề nghiệp, cuộc sống, được cấp đất canh tác…Đối với hài cốt liệt sĩ trên địa bàn xã, chính quyền huy động nhân dân tìm kiếm và đã di dời 39 bộ hài cốt đưa về Nghĩa trang liệt sĩ huyện Đức Huệ.Ngoài ra, những hộ thuộc diện gia đình chính sách được hỗ trợ về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng để giảm bớt những khó khăn trước mắt trong cuộc sống.
Công tác xã hội cũng được thực hiện thường xuyên, hàng năm, chính quyền xã đều đề nghị cấp trên xét bán lương thực, nhu yếu phẩm cho gia đình chính sách, hộ nghèo, đồng thời vận động phong trào giúp đỡ, ủng hộ những gia đình bị thiên tai, hỏa hoạn, nêu cao tinh thần đoàn kết trong nhân dân. Chính quyền vận động nhân dân xây dựng được 2 ngôi nhà tình nghĩa: một ở ấp Hoà Tây, một ở ấp Tân Hoà. Ngoài ra, việc xem xét hồ sơ khen thưởng những gia đình có người tham gia kháng chiến các thời kỳ cũng được xúc tiến khẩn trương, giải quyết kịp thời và đúng chế độ với những đối tượng này.
*Về an ninh quốc phòng:
Công tác an ninh:
Phong trào vì an ninh tổ quốc, xây dựng lực lượng công an nhân dân ngày càng lớn mạnh.Phong trào bảo vệ trật tự an toàn xã hội được phát động thường xuyên, từ cán bộ, đảng viên cho đến nhân dân.Công tác tổ chức mạng lưới an ninh nhân dân từ xã đến ấp, đến các tập đoàn sản xuất nên đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội. Các vụ án hình sự và tệ nạn xã hội được ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả.Công tác quản lý hộ tịch, hộ khẩu khá chặt chẻ, sự kếp hợp giữa công an và các ngành để quản lý thị trường ở địa phương được phát huy hiệu quả, giảm đi rõ rệt tình trạng đầu cơ, tích trử, mua gian, bán lận...Lực lượng công an xã không ngừng được xây dựng và kiện toàn, phát huy mạnh mẽ vai trò giữ gìn an ninh chính trị-trật tự an toàn xã hội.Bên cạnh đó, lực lượng công an còn kết hợp với tư pháp xã, thanh tra nhân dân để kiểm tra, giải quyết, hoà giải các vụ tranh chấp, khiếu tố, khiếu kiện trong nhân dân, góp phần gìn giữ sự đoàn kết, gắn bó trong toàn dân. Tuy có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn một vài bất cập cần khắc phục như chưa giải quyết kịp thời một số hiện tượng tiêu cực xã hội mới nảy sinh như gây rối, nạn đầu cơ tích trữ, tranh chấp đất đai...
Nhiệm vụ quốc phòng:
Phong trào bảo vệ và xây dựng phong trào quốc phòng toàn dân luôn được Đảng ủy và chính quyền quan tâm thường xuyên. Chính quyền phát động toàn dân cần cảnh giác với những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Là vùng giáp biên giới Việt Nam-Campuchia nên xã Bình Hoà Bắc tập trung cao độ để giữ vững vùng biên giới, đề phòng kẻ thù tấn công bất cứ lúc nào. Chính quyền đã quán triệt Luật Nghĩa vụ quân sự cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đưa công tác quản lý đăng ký quân dự bị đi vào nề nếp. Công tác tuyển quân của xã đạt thành tích đáng tự hào, hàng năm đều đạt và có năm vượt chỉ tiêu số lượng thanh niên lên đường nhập ngũ, bảo vệ Tổ quốc. Lực lượng dân quân được củng cố, kiện toàn đến tận ấp, thường xuyên canh gác,luyện tập, sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ quốc phòng. Tuy nhiên, công tác quốc phòng cũng còn một vài hạn chế: Công tác tổ chức lực lượng dân quân tự vệ chưa đều khắp, việc quân nhân bỏ ngũ trở về địa phương không lý do chưa giải quyết thoả đáng và triệt để, vấn đề tuyên truyền để thanh niên tự nguyện đăng ký gia nhập quân đội chưa thật sự sâu rộng.
Nhìn chung, 10 năm sau giải phóng, xã Bình Hoà Bắc đã đạt được những thành tựu cơ bản trong việc khắc phục hậu chiến tranh, bước đầu xây dựng và bảo vệ quê hương. Một trong những thành tựu đáng kể nhất là việc hợp tác hoá nông nghiệp, từ lối làm ăn cá thể được thay thế bằng phương thức sản xuất tập thể; mọi mặt văn hoá-xã hội đều được thay đổi, đời sống văn hoá mới được người dân hưởng ứng mạnh mẽ, công tác giáo dục, giải quyết chế độ chính sách đều được thực hiện thường xuyên và có hiệu quả. Công tác quốc phòng và an ninh trật tự, an toàn xã hội đi vào nề nếp, hướng tới xây dựng xã Bình Hoà Bắc ngày càng ổn định và phát triển.
II. THỜI KỲ THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1986-1995)
Bước vào giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến phức tạp. Ở Châu Âu, khối các nước xã hội chủ nghĩa bắt đầu lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đặc biệt là Liên Xô. Nền kinh tế khủng hoảng kéo theo hệ thống chính trị lung lay. Bên cạnh đó, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ đã làm cho tình hình các nước phe xã hội chủ nghĩa có nguy cơ tan rã.
Ở Việt Nam, sau 10 năm xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã gặt hái nhiều thành tựu to lớn nhưng cũng gặp phải không ít khó khăn, do tình hình thế giới và khu vực có nhiều chuyển biến phức tạp. Với nền kinh tế bao cấp, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm đều chịu sự chi phối, bao cấp của nhà nước. Khi nhu cầu xã hội phát triển, sự quản lý chặt chẻ của nhà nước đã kìm hảm nền kinh tế, làm cho đời sống nhân dân gặp muôn vàn khó khăn. Trước những thử thách có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của dân tộc, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phải có những hướng đi phù hợp với tình hình, đặc điểm của Việt Nam. Chính vì vậy, Đảng ta đã mạnh dạn thực hiện công cuộc đổi mới nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế, ổn định về chính trị, tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cuối năm 1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam họp tại Hà Nội đã nhận định, phân tích thực trạng của đất nước, tổng kết kinh nghiệm 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và biện pháp để đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội, bước vào chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện hai nhiệm vụ này, đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới công tác lãnh đạo, đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Dưới ánh sáng Nghị quyết đại hội Đại biểu toàn quốc lần VI của Đảng và nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Long An, Đảng bộ huyện Đức Huệ, Đảng ủy và chính quyền Bình Hoà Bắc quyết tâm thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội địa phương theo đường lối đổi mới của Đảng trong điều kiện xã nhà còn nhiều khó khăn.
Bắt đầu từ thời kỳ đổi mới (1986-1995), dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy và chính quyền, nhân dân Bình Hoà Bắc phấn đấu không ngừng, quyết tâm xây dựng kinh tế-xã hội vững mạnh, trở thành một trong những xã phát triển về mọi mặt của huyện Đức Huệ.
1.Đẩy mạnh phát triển kinh tế:
Trên cơ sở quy hoạch tiểu vùng kinh tế và đặc điểm tự nhiên của từng vùng đất, Đảng ủy, chính quyền đã mạnh dạn chỉ đạo việc chuyển đổi cơ cấu giống, cây trồng, vật nuôi phù hợp với từng vùng, ứng dụng triệt để khoa học kỹ thuật như cày ải, sạ khô, bừa lấp, bón lót, bón phân đúng kỳ, phun thuốc trừ sâu, rầy... trong sản xuất nông nghiệp. Đến năm 1995, tổng diện tích canh tác của xã Bình Hoà Bắc là 1.789 hecta (ha), trong đó sản xuất lúa một vụ có 350 ha, 02 vụ có 1.064 ha và 3 vụ có 375 ha. Năng suất bình quân 2 tấn/ha. Riêng diện tích cây công nghiệp ngắn ngày cũng tăng lên: diện tích trồng mía là 65 ha, đậu phọng 9 ha...Với việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cùng với hệ thống thủy lợi được mở rộng, sản lượng lương thực xã Bình Hoà Bắc liên tục tăng lên, từ 6.640 tấn (năm 1991) tăng lên 8.500 tấn (năm 1993); bình quân lương thực hàng năm đạt trên 900kg/người/năm, tăng gấp 5 lần so với năm đầu sau giải phóng. Đây là thành quả rất đáng khích lệ cho nền kinh tế bởi vì hơn 95% người dân Bình Hoà Bắc sản xuất nông nghiệp. Năng suất các loại cây công nghiệp ngắn ngày cũng tăng đáng kể: cây mía bình quân năng suất từ 45-50 tấn/ha; cây đậu phọng đạt bình quân 10 tạ/ha; riêng diện tích trồng bạch đàn tăng lên khá lớn, đến năm 1995, số lượng bạch đàn khoảng 150.000 cây. Tuy đạt được những thành quả rất đáng trân trọng trong sản xuất nông nghiệp, năng suất cây trồng tăng lên rõ rệt nhưng bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế: đó là thâm canh tăng vụ nhưng còn một số vùng như đất bưng năng suất còn thấp, một số nơi thiếu nước ngọt để sản xuất và sinh hoạt, việc vận động nhân dân ý thức sử dụng các giống lúa mới tăng năng suất còn khá chậm, cơ sở hạ tầng về giao thông, thủy lợi còn hạn chế....
Về chăn nuôi, đàn gia súc, gia cầm được định hướng phát triển theo mô hình kinh tế hộ gia đình. Đàn trâu, bò tăng mạnh, sau năm1900 có xu hướng giảm, riêng đàn heo, vịt, gà, cá mỗi năm đều tăng.Bắt đầu từ năm 1990-1995, mô hình kinh tế VAC(Vườn+Ao +Chuồng) được nhiều hộ gia đình ở Bình Hoà Bắc thực hiện rất hiệu quả, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
Tiểu thủ công nghiệp tuy có phát triển nhưng chưa đồng bộ, vẫn chủ yếu là các cơ sở tư nhân. Toàn xã có 12 máy xay lúa, 8 lò đường thủ công, 6 cơ sở sản xuất đồ gỗ. Bên cạnh đó, có một số cơ sở sửa chữa máy móc nông nghiệp như máy cày, máy bơm nước...nhưng còn thô sơ, thợ sửa chữa còn yếu chưa lành nghề.
Thương nghiệp và dịch vụ có phát triển nhưng còn chậm, phạm vi còn hẹp, phần lớn tiểu thương trong xã buôn bán tạp hoá và các quán giải khát. Việc xây dựng chợ tại khu vực Hội đồng Sầm chưa thực hiện được vì còn thiếu kinh phí đầu tư của nhà nước, chưa huy động được nguồn vốn trong nhân dân nên việc buôn bán còn phân tán, lẻ tẻ không tập trung.Thời kỳ đổi mới đã ghi nhận sự xuất hiện của hàng hoá ngày càng nhiều, càng đa dạng, chất lượng sản phẩm ngày càng cao và thị hiếu của người tiêu dùng càng đòi hỏi tính thẩm mỹ và chất lượng. Nhìn chung, thương nghiệp và dịch vụ thời kỳ đổi mới có phát triển nhưng còn chậm, chưa thật sự đáp ứng và thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng.
Hệ thống giao thông của xã không ngừng được mở rộng. Được sự đầu tư của tỉnh, của huyện và việc huy động lao động công ích của nhân dân, nhiều con đường được tu bổ và xây mới, đáng kể nhất là đường liên xã từ Bình Hoà Bắc đến Bình Hoà Nam được hoàn chỉnh, đường liên ấp từ Mỏ Heo đến ấp Chánh. Các con đường liên ấp từ ấp Tân Hoà đến ấp Chánh và các ấp khác đều được tu sửa. Chính quyền sử dụng ngân sách địa phương và sự đóng góp của nhân dân tu sửa tuyến đường từ Ngã ba Bình Thành đến khu chợ Hội đồng Sầm (chợ cũ) dài 1,5 km. Bên cạnh đó, những cây cầu xuống cấp cũng được thay thế và xây dựng thêm nhiều cây cầu mới tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đi lại nhất là vùng bưng, vùng ven sông.
Mạng lưới thủy lợi được ngân sách của tỉnh đầu tư nên nhiều công trình thủy lợi quan trọng của xã được xây dựng, đáng kể nhất là 3 tuyến kinh: kinh Lộ 10, kinh Hàng Gòn nối với Bàu Sấu và kinh Bờ Lộ Ghe. Mỗi tuyến kinh dài hơn 10 km đã giúp cho việc mở rộng diện tích sản xuất, đưa nước ngọt phục vụ tận vùng bưng. Chính nhờ những tuyến kinh quan trọng này, chính quyền vận động nhân dân lao động công ích mở các tuyến kinh nội đồng, nạo vét các tuyến kinh cũ để phục vụ sản xuất và đời sống.
Một thành tựu nổi bật của thời kỳ đổi mới là hệ thống điện sử dụng trong sinh hoạt và nguồn điện phục vụ sản xuất đã được đưa đến xã Bình Hoà Bắc. Với mục tiêu điện khí hoá nông thôn, khoảng 60% hộ gia đình đã có điện thắp sáng, chủ yếu những hộ gia đình sinh sống dọc theo các trục lộ giao thông chính trong xã. Hệ thống điện phục vụ sản xuất chủ yếu là các trạm bơm, đã phục vụ hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp nhất là các vụ lúa đông xuân và hè thu.
Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới (1986-1995), kinh tế xã Bình Hoà Bắc có nhiều biến đổi, từ một xã còn khó khăn của huyện Đức Huệ, Bình Hoà Bắc vươn lên trở thành một trong những xã phát triển, đời sống người dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.Thực hiện quá trình đổi mới, Đảng ủy và chính quyền mạnh dạn thay đổi cơ cấu kinh tế, từ sản xuất 01 vụ lúa sau ngày giải phóng, đến năm 1995 đã có nhiều vùng trên địa bàn xã sản xuất 03 vụ lúa ngắn ngày; đồng thời cơ cấu giống lúa mới, cây trồng, vật nuôi phù hợp từng vùng được chú trọng, vì vậy năng suất bình quân tăng đáng kể. Ngoài sản xuất nông nghiệp là thành phần chính của nền kinh tế, các hoạt động tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ, cơ sở hạ tầng đều được đầu tư, phát triển, đáng kể nhất là hoạt động thương nghiệp có những chuyển biến tích cực, lượng hàng hoá ngày càng đa dạng, phần nào đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Thời kỳ đổi mới đã tạo tiền đề phát triển kinh tế cho xã Bình Hoà Bắc trong những năm tiếp theo.
2.Trên lĩnh vực văn hóa-xã hội:
Nền kinh tế phát triển đi đôi với sự thay đổi diện mạo văn hoá-xã hội của Bình Hoà Bắc. Đảng ủy, chính quyền ưu tiên hàng đầu về phát triển kinh tế nhưng cũng rất quan tâm đến lĩnh vực văn hóa-xã hội.
Hoạt động văn hóa-thông tin ngày càng thu hút sự quan tâm của nhân dân. Những chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước thường xuyên được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đến quần chúng nhân dân.Đài phát thanh và đội thông tin lưu động kịp thời cung cấp những tin tức mới nhất về tình hình trong nước, tình hình phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, của huyện và đặc biệt là những thông tin mọi mặt kinh tế-xã hội của địa phương đến nhân dân. Cho đến năm 1995, Đài truyền thanh xã được hỗ trợ trang thiết bị khá đầy đủ, hiện đại, đáp ứng được yêu cầu phục vụ nhân dân. Những ngày lễ lớn của dân tộc, các đợt bầu cử, các dịp lễ hội ở địa phương, phong trào văn nghệ khá rầm rộ, nhu cầu về đời sống tinh thần của người dân ít nhiều được cải thiện và nâng cao. Với chương trình điện khí hoá nông thôn nên các phương tiện nghe, nhìn trong nhân dân cũng tăng gấp 3 so với giai đoạn trước năm 1986 với hơn 60% số hộ gia đình sử dụng phương tiện nghe, nhìn (radio, tivi).
Tuy nhiên, từ năm 1994, hoạt động văn nghệ quần chúng có xu hướng giảm do sự xuất hiện của nhiều loại hình giải trí phong phú, đa dạng nhất là dịch vụ Karaoke bước đầu thu hút khá đông thanh thiếu niên trong xã. Phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa được phát động rộng khắp và bước đầu thu hút được các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia, góp phần đẩy mạnh phong trào văn hoá -văn nghệ của xã Bình Hoà Bắc sang thời kỳ mới: kinh tế phát triển song song với đời sống tinh thần người dân ngày càng nâng cao, nhu cầu giải trí của mọi người càng phong phú và đa dạng.Tuy có nhiều nỗ lực nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân nhưng ít nhiều cũng còn những khó khăn nhất định. Nhu cầu giải trí còn khiêm tốn đối với người dân vùng sâu, vùng ven sông...Tệ nạn xã hội vẫn còn xảy ra như uống rượu say gây rối đánh nhau, nạn cờ bạc, đặc biệt là mê tín dị đoan bùng phát từ năm1989, đó là đồng bóng, đi chùa xin xăm...Sở dĩ có tình trạng trên là do công tác tuyên truyền về pháp luật của đội ngũ làm công tác văn hoá-thông tin còn hạn chế, chưa phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân.
Về giáo dục, sau 10 năm đổi mới, đã xây dựng thêm 15 phòng học mới, kiên cố. Sửa chữa và chống xuống cấp 8 phòng học. Chất lượng dạy và học đều được nâng lên, tình trạng học 3 ca được xóa bỏ, số lượng học sinh tốt nghiệp tiểu học(cấp I) và trung học cơ sở (cấp II) đều đạt trên 90%. Trường cấp II nhiều năm liền đạt danh hiệu trường tiên tiến cấp tỉnh. Công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học đã hoàn thành cơ bản. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đã có sự tăng cường về số lượng lẫn chất lượng, tỉ lệ học sinh bỏ học giảm đi rõ rệt. Tuy đạt được nhiều thành tích nhưng công tác giáo dục cũng gặp không ít khó khăn đó là cơ sở vật chất còn kém, đã xây thêm trường, lớp nhưng vẫn không đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng số lượng học sinh; việc đi lại khó khăn vì trên địa bàn xã chỉ có duy nhất một trường trung học cơ sở (cấp II). Bên cạnh đó, một số gia đình vì điều kiện sống còn thiếu thốn nên con em phải nghĩ học phụ giúp gia đình. Đó là những vấn đề rất đáng quan tâm của ngành giáo dục địa phương, là một trong những khó khăn của Bình Hoà Bắc trong thời kỳ đổi mới.
Công tác chăm lo sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân dân ngày càng được chú trọng. Đầu năm 1991, được sự đầu tư kinh phí của tỉnh và huyện, trung tâm Y tế của xã được xây dựng kiên cố. Bên cạnh đó, trung tâm Kế hoạch hoá gia đình cũng được xây mới gồm 3 phòng với 10 giường bệnh để chăm sóc sức khoẻ cho bà mẹ và trẻ em. Đội ngũ cán bộ, y sĩ cũng được tăng cường gồm 2 Y sĩ, 2 tá là nữ hộ sinh luôn phục vụ thường xuyên. Mạng lưới y tế xã được hình thành tới ấp, chương trình phòng chống dịch bệnh như tiêu chảy, đậu mùa, sốt rét, lao và một số bệnh khác được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Công tác vệ sinh phòng dịch, vận động nhân dân ăn ở hợp vệ sinh, thực hiện kế hoạch hóa gia đình có chuyển biến tích cực. Đặc biệt, việc tiêm chủng mở rộng hàng năm, trạm Y tế Bình Hoà Bắc là một trong những địa phương luôn dẫn đầu của huyện Đức Huệ trong nhiều năm liền (1990-1995). Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng công tác Y tế của xã cũng còn một vài hạn chế như tỉ lệ phát triển dân số còn cao (2,9%) do việc phổ biến việc sinh đẻ có kế hoạch chưa sâu rộng trong nhân dân (nhất là vùng bưng, vùng ven sông). Trình độ Y sĩ còn hạn chế nên việc khám, chữa bệnh cho nhân dân còn nhiều khiếm khuyết, chưa thật sự đáp ứng nhu cầu chăm lo sức khoẻ của người dân.
Chiến tranh đã qua đi nhưng hậu quả để lại rất nặng nề, xã Bình Hoà Bắc có hàng chục hộ gia đình nằm trong diện chính sách cần được hỗ trợ về vật chất lẫn tinh thần. Hàng chục thương, bệnh binh cần được giúp đở để vươn lên trong cuộc sống. Công tác đền ơn đáp nghĩa được Đảng ủy và chính quyền quan tâm sâu sắc, thường xuyên giải quyết đầy đủ và kịp thời đối với các đối tượng chính sách, thăm viếng các gia đình liệt sĩ, thương binh, các cán bộ về hưu, mất sức trong ngày lễ, ngày Tết, hoặc trong những lúc khó khăn. Chính quyền địa phương luôn quan tâm đến những đối tượng chính sách mà trong thời gian qua vì nhiều lý do chưa được xét và công nhận gia đình liệt sĩ, gia đình thương binh, gia đình tham gia kháng chiến 3 thời kỳ... Ngoài ra, lãnh đạo địa phương còn tạo điều kiện sản xuất cho những gia đình thuộc diện chính sách, cung cấp vốn ưu đãi để sản xuất. Những gia đình liệt sĩ nếu không có đất sản xuất được cấp đất, những ai chưa có việc làm cũng được hỗ trợ vốn để sản xuất hoặc chăn nuôi. Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng công tác thương binh-xã hội của xã Bình Hoà Bắc cũng còn những hạn chế nhất định. Chế độ dành cho những gia đình diện chính sách thường khá chậm, làm cho cuộc sống của họ gặp không ít khó khăn vì đó là nguồn thu nhập quan trọng của mỗi gia đình. Ngân sách của xã còn khiêm tốn nên việc hỗ trợ vốn cho gia đình diện chính sách chưa cao, chưa sâu rộng. Quá trình xây dựng nhà tình nghĩa cho gia đình liệt sĩ còn chậm, chưa kêu gọi các mạnh thường quân từ nhiều nơi mà chỉ gói gọn trên phạm vi của địa phương.
3.Giữ vững an ninh-quốc phòng:
Về An ninh:
Thực hiện Nghị quyết số 02 của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 04 của Huyện ủy“ V/v xây dựng xã, phường trong tình hình mới”. Trên cơ sở đó, Bình Hoà Bắc đã xây dựng được 14 tổ dân cư với 138 hộ tham gia; xây dựng được 4 Ban tự quản tại 4 ấp gồm 32 tổ với 74 thành viên.Với mạng lưới an ninh rộng khắp, cùng sự kết hợp với lực lượng quân sự, trong thời kỳ đổi mới, lực lượng công an xã đã phá tan một số vụ án hình sự, giải quyết kịp thời hàng chục vụ gây rối, làm mất an ninh, trật tự tại địa phương. Hàng chục đối tượng gây rối, đánh nhau và các vi phạm khác đã được giáo dục, cảnh cáo và phạt hành chính tuỳ theo mức độ vi phạm. Lực lượng công an xã được sự hỗ trợ của quần chúng đã phát hiện và giáo dục kịp thời một số đối tượng truyền bá mê tín dị đoan, giáo dục và trục xuất về nơi cư trú. Công tác quản lý hộ khẩu, nhân khẩu trên địa bàn xã ngày càng chặt chẽ thông qua Ban tự quản các ấp. Người dân đã ý thức trong việc rời địa phương để làm ăn đều xin phép tạm vắng, những ai đến lâu ngày đều khai báo tạm trú đầy đủ. Phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh thôn xóm do chính quyền, đoàn thể phát động và tổ chức được nhân dân tích cực hưởng ứng. Mạng lưới Ban tự quản, Tổ dân cư được củng cố, tập huấn về nghiệp vụ, nâng cao chất lượng hoạt động nên công tác quản lý địa bàn cơ sở ngày càng chặt chẽ, góp phần hạn chế và đẩy lùi các loại tội phạm, các tệ nạn xã hội.
Thời kỳ mở cửa, phát triển kinh tế đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng nâng cao đồng thời cũng gây ra những xáo trộn nhất định trong xã hội. Một trong những vấn đề bức xúc nhất ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự ở địa phương là tình trạng buôn bán lậu(chủ yếu là thuốc lá ngoại, hàng điện tử). Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX (từ 1991-1996), có đến 80% số hộ dân xã Bình Hoà Bắc buôn bán lậu. Trước tình trạng trên, UBND tỉnh và các ngành liên quan đã chỉ đạo các địa phương có biện pháp hữu hiệu để chống buôn lậu, chống tham nhũng nhất là những huyện giáp biên giới Campuchia, trong đó có huyện Đức Huệ.Thực hiện chỉ đạo của tỉnh, Huyện ủy Đức Huệ ra Nghị quyết 03 “V/v chống buôn lậu, tiêu cực và tham nhũng”.Nghị quyết trên được triển khai sâu rộng đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Lực lượng công an tăng cường kiểm tra, quyết liệt trong việc chống buôn lậu trên địa bàn Bình Hoà Bắc.Thông qua Nghị quyết của Huyện ủy và tinh thần đấu tranh không ngừng của lực lượng an ninh, tình hình buôn lậu giảm đáng kể, chỉ còn khoảng 30% số hộ dân buôn lậu. Kết quả trong 2 năm chống buôn lậu (1992-1993) đã tịch thu trên 22.000 cây thuốc lá ngoại, 6 xuồng máy, đưa đi cải tạo 6 đối tượng, trên 400 người phải làm cam kết bỏ hẳn việc buôn bán lậu.Tuy nhiên, do lợi nhuận khá cao, người dân Bình Hoà Bắc vẫn lén lút buôn lậu. Đau lòng hơn, một số gia đình cán bộ, đảng viên vẫn có người tham gia buôn lậu đã làm cho nhân dân giảm lòng tin vào đội ngũ lãnh đạo và đảng viên, gây ra những mất mát khó bù đắp được trong công tác tuyên truyền, vận động người dân không tham gia buôn, bán lậu cũng như các công tác khác ở địa phương.
Về quốc phòng:
Nhiệm vụ quốc phòng ngày càng được củng cố trên cơ sở thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Dưới dự lãnh đạo của Đảng ủy và chính quyền, công tác quân sự của địa phương luôn được quan tâm sâu sắc. Luật nghĩa vụ quân sự được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên đến tuổi thi hành nghĩa vụ quân sự. Công tác tuyển quân đạt và vượt chỉ tiêu nhiều năm liền. Từ những năm 1990-1991, sau khi quân tình nguyện Việt Nam rút khỏi Campuchia thì công tác tuyển quân làm nhiệm vụ quốc phòng đạt yêu cầu nhưng chỉ tiêu tuyển quân làm nhiệm vụ kinh tế lại gặp nhiều khó khăn, quân số chưa đạt với chỉ tiêu đề ra. Đối với những trường hợp quân nhân đào ngũ, chính quyền thuyết phục, giáo dục và đưa về đơn vị xử lý kịp thời. Nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân vì vậy công tác xây dựng lực lượng dân quân tự vệ luôn được chú trọng cả về số lượng và chất lượng. Xã Bình Hoà Bắc đã xây dựng trung đội dân quân tự vệ thường xuyên hoạt động, gìn giữ trật tự, an toàn xóm ấp, phân công trực bảo vệ trong những dịp lễ, Tết. Trong thời kỳ phát triển kinh tế, nhiệm vụ quốc phòng không ngừng được củng cố và phát triển, góp phần gìn giữ trật tự, tạo môi trường ổn định về mọi mặt đời sống-xã hội ở địa phương và những xã lân cận.
Có thể nói, sau 10 năm đổi mới và phát triển, thành tựu trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá-xã hội, an ninh-quốc của Bình Hoà Bắc đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân. Sự đổi mới trên các lĩnh vực làm cho mức sống người dân ngày một ổn định và nâng cao, cơ bản hộ đói trên địa bàn xã hầu như không còn, số hộ nghèo ở địa phương còn khoảng 30%, số hộ khá giả ngày một nhiều và đặc biệt một số hộ giàu xuất hiện thời kỳ đổi mới đã làm cho bộ mặt nông thôn xã Bình Hoà Bắc thay đổi không ngừng.
Với đà phát triển kinh tế, đời sống vật chất ngày một nâng cao đã góp phần làm cho đời sống tinh thần của người dân thêm phong phú. Nhu cầu hưởng thụ văn hoá, vui chơi giải trí của nhân dân được cải thiện đáng kể. Từ khi đổi mới, từ một xã nghèo của huyện Đức Huệ, Bình Hoà Bắc đã vươn lên trở thành một trong những địa phương có mức thu nhập bình quân đầu người tương đối khá so với thu nhập bình quân đầu người của huyện nói riêng và của toàn tỉnh nói chung. Có được thành tựu trên đó là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ủy và chính quyền, tuỳ theo đặc điểm và tình hình của địa phương đã mạnh dạn đề ra những kế hoạch kinh tế-xã hội cụ thể, phù hợp với từng vùng và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Sự ổn định và phát triển của xã Bình Hoà Bắc trong thời kỳ đổi mới là tiền đề rất quan trọng cho thời kỳ phát triển bền vững của địa phương khi đất nước ta chuyển mình thực hiện bước đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
III. THỜI KỲ ĐẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG THÔN (1996-2005)
Thành tựu của 10 năm đổi mới (1986-1995) đã tạo ra bước ngoặt quan trọng cho việc tăng tốc nền kinh tế, phát triển về mọi mặt văn hoá-xã hội của địa phương trong thời kỳ đầu xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần VIII Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra năm 1996 đã khẳng định“Công cuộc đổi mới sau 10 năm đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, đưa đất nước đi lên công nghiệp hóa-hiện đại hóa từng bước vững chắc. Đường lối đổi mới cơ bản là đúng đắn, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Vì thế, Đảng đã đề ra mục tiêu quan trọng là“Xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”
Với những chủ trương của Đảng và nhà nước định hướng phát triển nước ta trở thành nước công nghiệp, tùy theo tình hình thực tế của địa phương, trên cơ sở quán triệt Nghị quyết của Tỉnh ủy Long An, Huyện ủy Đức Huệ về tình hình phát triển kinh tế-văn hoá-xã hội, về an ninh, quốc phòng, Đảng ủy và chính quyền lãnh đạo địa phương thực hiện từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, bước đầu đạt được những thành tựu nổi bật, thể hiện trên các lĩnh vực:
1.Kinh tế:
Với cơ cấu sản xuất nông nghiệp là chủ đạo của nền kinh tế, đồng thời phát huy thế mạnh của từng vùng để phát triển cây công nghiệp, xã Bình Hoà Bắc tập trung đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, tổng sản lượng lương thực liên tục tăng, từ 8.500 tấn (1993) tăng lên 19.581 tấn(2005),bình quân lương thực trên đầu người liên tục tăng hàng năm. Thời kỳ đầu đổi mới đạt 900 kg/người (1995), tăng lên 1.720 kg/người(1999)và đến năm 2005là 2.359 kg/người. Năng suất các loại cây công nghiệp ngắn ngày cũng tăng đáng kể: cây mía bình quân năng suất từ 55-60 tấn/ha, tổng sản lượng 1.320 tấn, cây đậu phọng đạt bình quân 15tạ/ha; diện tích cây lâm nghiệp không ngừng phát triển, mang lại hiệu quả kinh tế đáng khích lệ. Việc cơ giới hoá nông nghiệp đã làm thay đổi cơ bản nông thôn Bình Hoà Bắc, hàng trăm máy cày, máy bơm nước được trang bị phục vụ sản xuất. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật được áp dụng rộng rãi vào sản xuất, được đông đảo người dân thực hiện, đã góp phần nâng cao năng xuất, thâm canh tăng vụ, kết hợp giữa trồng lúa và hoa màu tuỳ theo từng vùng đất thích hợp.
Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm tăng lên rõ rệt.Người nông dân được vay vốn, hỗ trợ về kỹ thuật chăn nuôi nên số lượng lẫn chất lượng của đàn gia súc, gia cầm đạt hiệu quả cao. Cho đến thời điểm 2005,đàn trâu bò đạt gần 1.000 con, trong đó đàn bò phát triển mạnh bởi giá cả hấp dẫn, khả năng thu hồi vốn trong thời gian ngắn, nguồn thức ăn dồi dào. Đàn heo phát triển hàng năm, năm 2005 đạt trên 2.000 con. Bên cạnh đó, đàn gia cầm có chiều hướng giảm, nhất là dịch cúm gia cầm đã làm cho những hộ nuôi gà, vịt gặp không ít khó khăn trong từng thời điểm nhất định. Năm 2005, tổng số đàn gia cầm của xã trên 20.000 con. Diện tích tràm, mía, đậu phộng ổn định, cho hiệu quả kinh tế khá cao. Để hổ trợ phát triển kinh tế, Đảng ủy, chính quyền tạo điều kiện thuận lợi cho việc vay vốn, hỗ trợ vốn. Với chính sách ưu đãi về vốn, nhiều hộ sản xuất, kinh doanh thuận lợi, nâng số hộ khá, giàu trên địa bàn xã ngày càng nhiều.
Trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, Bình Hoà Bắc đạt được những thành tựu to lớn về xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông và hệ thống điện nông thôn. Hệ thống cầu bằng bê tông dần thay thế các cây cầu gỗ. Các tuyến đường giao thông liên xã, liên ấp cơ bản được trải sỏi đỏ, cầu cống được bê-tông hóa, hệ thống thủy lợi và công trình truyền tải điện phủ đều các ấp trong xã. Các công trình điện từ Cây Điệp đi Rạch Bần đã đáp ứng nhu cầu thắp sáng và sinh hoạt của nhân dân. Mạng lưới thủy lợi ngày càng được mở rộng và nâng cấp. Các tuyến kinh đi Ma-ren, đi Trà Cú, Rạch Gốc đi Giồng Nhỏ và hệ thống kinh nội đồng dẫn nước tưới, tiêu cho toàn bộ cánh đồng trên địa bàn xã, nâng cao năng suất, thâm canh tăng vụ. Thực hiện chủ trương của tỉnh về an sinh vùng lũ, xã Bình Hoà Bắc mạnh dạn triển khai các cụm dân cư tránh lũ, đồng thời đắp đê bao vùng sản xuất, sinh hoạt, phòng tránh kịp thời khi lũ lụt xảy ra.
Thương mại, dịch vụ trong thời kỳ này khá phát triển, các đại lý ngày càng nhiều, hàng hoá dồi dào, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của người dân. Hàng hoá phục vụ đời sống, vật tư nông nghiệp phục vụ sản xuất đầy đủ, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp ra đời, hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, chợ đầu mối Hội đồng Sầm là nơi trao đổi, mua bán không những trên địa bàn xã mà còn trao đổi với các xã lân cận. Nhìn chung, thời kỳ đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, xã Bình Hoà Bắc vượt qua khó khăn, thử thách, bước đầu đạt được những thành quả đáng khích lệ. Cho đến thời điểm năm 2005, Bình Hoà Bắc có 49% số hộ có mức sống khá-giàu;30% số hộ có mức sống trung bình (đủ ăn); 21% số hộ có cuộc sống thiếu thốn (nghèo). Phương tiện đi lại (chủ yếu là xe gắn máy) có khoảng 60% số hộ trên toàn xã. Chương trình điện khí hoá nông thôn hầu như phủ đều khắp địa bàn xã, có đến 80% số hộ sử dụng điện thắp sáng và sinh hoạt. Một thành tựu nổi bật trong thời kỳ này là nước sạch đã phục vụ đều khắp cho nhân dân trong xã. Đã có 80% số hộ toàn xã sử dụng nước sạch trong cuộc sống và sinh hoạt.Về phương tiện nghe, nhìn hầu như mỗi gia đình đều có (khoảng 90%).
Sau 10 năm phát triển kinh tế (1996-2005) theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, Bình Hoà Bắc có nhiều chuyển biến rõ rệt. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng nâng cao. Cơ sở hạ tầng ngày càng hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân.Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu,còn có những khiếm khuyết như việc đầu tư xây dựng cơ bản một số công trình còn chậm, cụm dân cư vùng lũ chưa phát huy được hiệu quả; hoạt động thương mại-dịch vụ tuy có phát triển nhưng còn một số hạn chế trong đó việc tiêu thụ nông sản của địa phương chưa cao, nhiều mặt hàng chưa đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng...Vượt qua những trở ngại trên sẽ mang đến cho nền kinh tế Bình Hoà Bắc ngày một phát triển, mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
2.Văn hóa-xã hội:
Song song với phát triển kinh tế, Đảng ủy và chính quyền luôn quan tâm đến mọi mặt văn hoá-xã hội của địa phương. Với mục tiêu quan trọng là đào tạo nguồn nhân lực cho xã nhà vì vậy công tác giáo dục-đào tạo được quan tâm sâu sắc. Mạng lưới trường, lớp từng bước được quy hoạch phù hợp, đáp ứng nhu cầu học tập của con em ở vùng sâu, vùng xa, khi điều kiện đi lại của các em còn khó khăn. Cơ sở vật chất-kỹ thuật được xây dựng kiên cố hoá, đảm bảo tính bền vững, lâu dài. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên các cấp tiểu học và trung học cơ sở được quan tâm, có chính sách đãi ngộ phù hợp, nâng cao cả về chất lượng và số lượng, không còn tình trạng thiếu giáo viên.Công tác phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở được ngành giáo dục công nhận đạt chuẩn (năm 2004). Tỉ lệ tốt nghiệp học sinh tiểu học đạt khá cao, năm học 2004-2005 đạt 100%, trung học cơ sở đạt 99,%. Nhìn chung, công tác giáo dục-đào tạo có nhiều khởi sắc, đáp ứng nhu cầu xã hội và nhu cầu nguồn nhân lực của địa phương trong tương lai gần.
Công tác chăm sóc, khám chữa bệnh cho nhân dân luôn được chính quyền quan tâm. Mạng lưới y tế xuống tận các ấp. Trạm Y tế xã đã có 1 bác sĩ đa khoa, đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế đảm bảo chuyên môn, đáp ứng nhu cầu khám, điều trị cho nhân dân(trừ một số trường hợp nặng phải chuyển viện).Hàng năm, xã thực hiện đầy đủ các chương trình y tế quốc gia như phòng ngừa các bệnh truyền nhiểm, tiêm ngừa cho trẻ em trong độ tuổi từ sơ sinh đến miễn dịch (8 tuổi).Công tác chăm sóc bà mẹ và trẻ em luôn được chú trọng, tỉ lệ sinh giảm, giữ vững tỉ lệ tăng dân số của địa phương phù hợp(1,2%).
Hoạt động văn hoá-văn nghệ, thể dục thể thao có những chuyển biến tích cực, đáp ứng nhiệm vụ phục vụ chính trị và nhu cầu hưởng thụ văn hoá-văn nghệ của nhân dân. Đài truyền thanh Bình Hoà Bắc thường xuyên phục vụ 2 buổi/ngày nhằm thông tin, tuyên truyền những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, tình hình kinh tế-xã hội của địa phương. Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư phát triển sâu rộng, trở thành phong trào sôi nổi trong nhân dân, thu hút hầu như toàn bộ người dân trong xã tham gia. Về xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, toàn xã có 80% số hộ đạt 4 tiêu chuẩn nếp sống văn minh-gia đình văn hóa; xã Bình Hoà Bắc có 01 ấp văn hoá cấp tỉnh (ấp An Hoà). Phong trào văn nghệ khá phát triển, xã có Đội văn nghệ quần chúng, phục vụ nhân dân vào các ngày lễ, tết, tham gia hội diễn văn nghệ cấp huyện. Phong trào thể dục thể thao, rèn luyện sức khoẻ cho nhân dân được nhiều người tham gia, hưởng ứng, nhất là khu vực đông dân cư, gần trung tâm thị tứ. Đội bóng đá, bóng chuyền của xã hoạt động mạnh, thường giao lưu, thi đấu cùng xã bạn, nâng cao sức khoẻ trong lực lượng thanh niên. Phong trào toàn dân tham gia luyện tập thể dục, thể thao, tập dưỡng sinh được phát động rộng rãi, thu hút nhiều người tham gia, nhất là các cụ lớn tuổi ở khu vực thị tứ, đông dân cư.
Công tác thực hiện chế độ, chính sách đối với gia đình liệt sĩ, gia đình thương binh, người có công với nước luôn được lãnh đạo địa phương quan tâm, nhất là những gia đình liệt sĩ, thương bệnh binh gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Thực hiện công tác đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Bà Mẹ Việt Nam anh hùng được các cấp, các ngành địa phương quan tâm, hỗ trợ. Xã Bình Hoà Bắc có 11 bà mẹ Việt Nam anh hùng (02 Mẹ còn sống). Lãnh đạo địa phương thăm hỏi ân cần các Mẹ những lúc ốm đau, vận động nhiều nguồn kinh phí hỗ trợ và chu cấp cho các Mẹ đến suốt đời. Công tác hỗ trợ nhà ở cho gia đình chính sách, gia đình đặc biệt khó khăn được cấp ủy Đảng, chính quyền vận động mạnh thường quân, các nhà hảo tâm giúp đở xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương đạt kết quả tốt.Trong 5 năm (2001-2005) đã xây dựng được 47 căn nhà tình nghĩa, 58 căn nhà tình thương, về cơ bản hoàn thành chỉ tiêu của huyện đề ra. Chính quyền địa phương kết hợp với Phòng chính sách của BCH Quân sự tỉnh quy tập hài cốt liệt sĩ còn lại trên địa bàn xã đưa về Nghĩa trang liệt sĩ huyện (62 hài cốt); chính quyền địa phuương tiếp tục xét hồ sơ cho những đối tượng có công phục vụ cách mạng trước năm 1975, đảm bảo đúng đối tượng, đúng việc, không để trường hợp người có công với cách mạng bị bỏ sót kéo dài.
Nhìn chung, trong 10 năm đầu thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, trên lĩnh vực văn hoá-xã hội, xã Bình Hoà Bắc đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng nâng cao, các loại hình văn hoá phong phú, đa dạng, góp phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá, vui chơi giải trí của nhân dân.
3.An ninh-quốc phòng:
Về an ninh:
Công tác an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được Đảng ủy, chính quyền đặc biệt quan tâm, nhằm ổn định tình hình trật tự địa phương. Quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết 08/BCT về bảo vệ an ninh quốc gia nhằm phát hiện kịp thời mọi âm mưu, thủ đọan của kẻ thù trong tình hình mới. Lực lượng công an, dân phòng và nhất là tai mắt của nhân dân luôn đề cao cảnh giác, phát hiện và ngăn chặn, vô hiệu hoá âm mưu, thủ đoạn của địch trong vấn đề tranh chấp đất đai, tranh chấp đất bưng bỏ hoang, giải quyết dứt điểm, đúng pháp luật các vấn đề khiếu kiện, tránh trường hợp khiếu kiện tập thể, giảm súc niềm tin của nhân dân. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc tiếp tục được củng cố và phát triển, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, nhất là địa bàn ấp Chánh-nơi tiếp giáp với sông Vàm Cỏ Đông.Thực hiện chương trình mục tiêu 3 giảm có kết quả khả quan, trấn áp tội phạm, kềm chế các tệ nạn xã hội và giảm bớt tai nạn giao thông…Trong công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hoá, lực lượng an ninh kết hợp với cán bộ quản lý văn hoá thường xuyên kiểm tra các tụ điểm văn hoá, dịch vụ Karaoke, quán ăn, quán giải khát...phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm, đảm bảo đời sống văn hoá lành mạnh trên địa bàn.
Về quốc phòng:
Là một trong những xã giáp vùng biên giới, công tác quốc phòng luôn được cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể chú trọng.Quán triệt, triển khai, thực hiện Nghị quyết 08/BCH.TW (Khoá IX) về chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận chiến tranh nhân dân; thường xuyên xây dựng bổ sung kế hoạch phòng thủ; gắn phát triển kinh tế với đảm bảo an ninh, quốc phòng. Nhận thức tầm quan trọng đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, chính quyền cũng như sự chỉ đạo của BCH quân sự cấp trên, công tác quân sự địa phương được thực hiện tốt, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đều khắp, tỉ lệ dân quân tự vệ đạt 2,4% so với tổng dân số của xã.Công tác kêu gọi thanh niên đăng ký nghĩa vụ và lên đường nhập ngũ đảm bảo 100% chỉ tiêu được giao.Tiến hành đăng ký quân dự bị hạng I gồm 20 sĩ quan,110 hạ sỹ quan, xây dựng biên chế quân ngũ và tổ chức huấn luyện thường xuyên hàng năm.Tổ chức dân quân tự vệ gồm 01 trung đội hoạt động thường xuyên với 65 thanh niên, tổ chức biên chế, hàng năm đều có các đợt tập huấn, tham gia hội thao đầy đủ. Công tác giáo dục quốc phòng, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng được tổ chức thường xuyên theo kế hoạch của cơ quan chuyên môn cấp trên.
4.Xây dựng hệ thống chính trị và phát huy dân chủ ở cơ sở:
Với vai trò lãnh đạo và quản lý mọi mặt kinh tế-xã hội ở địa phương, cấp ủy Đảng, chính quyền luôn quan tâm, chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho các đoàn thể hoạt động thường xuyên.Trong nhiều năm liền, mặt trận, đoàn thể xã được huyện xếp loại vững mạnh, một vài đoàn thể xếp loại khá. Thông qua các đoàn thể, vai trò lãnh đạo, quản lý của cấp ủy Đảng và chính quyền triển khai xuống tận cơ sở, nhiều phong trào được đông đảo hội viên, đoàn viên tham gia, tuyên truyền, vận động nhân dân hưởng ứng ngày càng nhiều, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế-văn hoá-xã hội của địa phương.
Tổ chức Đảng và chính quyền luôn được đổi mới, chỉnh đốn theo tinh thần nghị quyết Trung ương 6 (2), khóa VIII, nhằm mục tiêu ngày càng trong sạch, vững mạnh, thực hiện tốt vai trò lãnh đạo sự nghiệp đổi mới ở địa phương. Củng cố, kiện toàn tổ chức Đảng từ Đảng ủy đến chi bộ ấp, phát huy vai trò lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ chính trị, đưa kinh tế-xã hội của địa phương ngày càng phát triển. Chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân ngày càng được nâng cao, xứng đáng với vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Ủy ban nhân dân phát huy tính năng động, sáng tạo, hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước. Đội ngũ cán bộ-công chức, viên chức được rèn luyện, học tập nâng cao trình độ về chính trị và chuyên môn theo hướng tinh gọn để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã tác động đến các mặt của đời sống xã hội.Cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể dần nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong việc thực hiện quy chế dân chủ. Mọi hoạt động của chính quyền địa phương phải được nhân dân tham gia giám sát, phê bình, góp ý, thực hiện theo phương châm:“Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”,cố gắng đừng để mất niềm tin trong nhân dân. Cấp ủy, chính quyền thường xuyên quan tâm công tác tiếp dân, giải quyết kịp thời mọi khiếu nại, tố cáo của công dân.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức...trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như các Nghị quyết của Đảng các cấp, tuyên truyền giáo dục truyền thống, thông tin kịp thời tình hình trong nước, quốc tế đến cán bộ, đảng viên và công chức, viên chức. Bên cạnh đó, những cán bộ, đảng viên, công chức có biểu hiện sai trái cần được chấn chỉnh, tạo nên sự đoàn kết nội bộ, tạo niềm tin trong nhân dân và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng.
Tóm lại, sau 30 năm sau ngày giải phóng miền Nam 30-4-1975, cùng với cả nước, Đảng bộ, chính quyền cùng toàn thể nhân dân Bình Hoà Bắc chung tay xây dựng quê hương sau những năm tháng chiến tranh ác liệt. Hậu quả nặng nề của chiến tranh đã làm cho quê hương Bình Hoà Bắc điêu tàn, khắc phục mọi khó khăn để ổn định cuộc sống, xây dựng xã hội mới là mục tiêu hàng đầu của nhân dân Bình Hoà Bắc. Là một địa phương của huyện vùng biên giới, Bình Hoà Bắc gặp nhiều khó khăn trong thời kỳ đầu xây dựng quê hương. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy và chính quyền, nhân dân Bình Hoà Bắc đã từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất, xây dựng và củng cố cơ sở hạ tầng, tiếp tục mở rộng hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất.
Sau 10 năm xây dựng và bảo vệ quê hương (1976-1985), thành tích nổi bật của xã Bình Hoà Bắc là phong trào hợp tác hoá nông nghiệp cơ bản hoàn thiện, góp phần ổn định sản xuất, đời sống của người dân ngày càng ổn định và cải thiện. Diện tích khai hoang mở rộng, thâm canh tăng vụ, năng suất sản xuất tăng lên đáng kể với những giống lúa mới, ngắn ngày, các loại cây công nghiệp thích hợp cho từng vùng đất ở địa phương. Cơ sở hạ tầng như giao thông, thủy lợi, trường học, bệnh xá...được củng cố và mở rộng, phục vụ khá tốt cho sản xuất và đời sống nhân dân. Mọi mặt văn hoá, xã hội có những bước tiến quan trọng. Chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước về xây dựng xã hội mới, con người mới được phổ biến sâu rộng đến người dân, được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Công tác quốc phòng, an ninh được giữ vững, bộ máy chính quyền được củng cố, góp phần quan trọng cho quá trình đổi mới của địa phương trong những năm tiếp theo.
Từ năm 1986, khi Đảng và nhà nước ta mạnh dạn xoá bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã đưa nước ta phát triển vượt bật về mọi mặt, nhất là về kinh tế và sự ổn định về chính trị. Tại Bình Hoà Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy và chính quyền, sau 10 năm đổi mới và phát triển (1986-1995), tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá-xã hội, an ninh-quốc phòng đạt được những thành tựu rất lớn.Từ một xã nghèo của huyện Đức Huệ, sau thời kỳ đổi mới, Bình Hoà Bắc là một trong những địa phương có thu nhập bình quân đầu người khá ổn định, số hộ nghèo ở địa giảm hẳn, số hộ khá giả, giàu có ngày càng nhiều làm cho đời sống vật chất lẫn tinh thần của ngườii dân ngày càng nâng cao. Có được thành tựu trên đó là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ủy và chính quyền, tuỳ theo đặc điểm và tình hình của địa phương đã mạnh dạn đề ra những kế hoạch kinh tế-xã hội cụ thể, phù hợp với nguyện vọng nhân dân. Sự ổn định và phát triển của xã Bình Hoà Bắc trong thời kỳ đổi mới là tiền đề rất quan trọng cho thời kỳ phát triển bền vững của địa phương khi đất nước ta chuyển mình thực hiện bước đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Phát huy nền tảng của 10 năm đổi mới, Bình Hoà Bắc mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo xu thế công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn (1996-2005). Về cơ bản vẫn lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng nhưng áp dụng triệt để khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thâm canh tăng vụ, lựa chọn giống lúa thích hợp cho từng vùng, đưa năng suất ngày càng tăng cao. Một yếu tố quan trọng của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn ở Bình Hoà Bắc là xây dựng cơ sở hạ tầng bền vững, nhất là về giao thông, thủy lợi, điện, nước, là cơ sở vững chắc cho quá trình phát triển về sau. Bên cạnh đó, hệ thống chính trị địa phương luôn được giữ vững, tạo niềm tin trong nhân dân, góp phần quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế-văn hoá-xã hội trong thời gian qua.
Sau 20 năm đổi mới và phát triển, từ một vùng quê nghèo khó với sản xuất nông nghiệp lạc hậu, đất hoang chiếm phần lớn, cơ sở hạ tầng hầu như không có gì, nước nhiểm phèn, chua quanh năm, đời sống người dân còn thiếu thốn mọi bề...Bình Hoà Bắc vươn lên mạnh mẽ với cơ sở hạ tầng được đầu tư, nâng cấp, cơ cấu kinh tế chuyển đổi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Mọi mặt kinh tế-văn hoá-xã hội đều phát triển, tình hình an ninh chính trị được giữ vững, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với chiến tranh nhân dân. Với tiềm năng của địa phương, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bình Hoà Bắc quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, dù biết rằng phía trước còn không ít khó khăn, thử thách.
[1] Xã Bình Hoà Bắc được thành lập năm 1836 với tên gọi làng Bình Hoà. Tên gọi này tồn tại đến năm 1947. Năm 1947, để phù hợp với tình hình của cuộc kháng chiến chống Pháp, làng Bình Hoà được tách ra làm 2 xã Bình Hoà Bắc và Bình Hoà Nam cho đến nay.
[2] Về tên gọi có một số địa phương gọi theo các tên khác nhau: nơi gọi Lê Công Trình, nơi gọi Lê Tử Trình. Năm 1987, Ủy ban nhân dân huyện Đức Huệ tổ chức hội thảo thống nhất tên gọi là Lê Công Trình-vì vậy trong lịch sử & truyền thống xã Bình Hoà Bắc gọi theo kết luận của cuộc hội thảo trên.
[3] Nhà máy đường Hiệp Hoà thành lập năm 1927-là một trong những nhà máy đường đầu tiên của tỉnh Chợ Lớn.
[4] Đồng chí Phạm Văn Khương là nhà cách mạng tiền bối , ông sinh năm 1894, queâ ôû làng Bình Nhựt, quận Thủ Thừa, tỉnh Tân An (nay laø huyeän Beán Löùc, tænh Long An).
[5] Sau Hiệp định Genève-1954, gia đình ông Bùi Văn Bương đã đưa hài cốt ông về xã Bình Hoà Bắc chôn cất.
[6] Tên Trương Ngọc Đông là cháu nội của Cả Huê-một tên địa chủ -tay sai ác ôn thời Pháp thuộc ở xã Bình Hoà Bắc.